Tra cứu mức phạt

Tra cứu mức phạt

Sẽ kiểm tra nồng độ cồn cả ngày lẫn đêm trên địa bàn TPHCM

Từ nay đến trước Tết Nguyên đán 2024, cảnh sát giao thông ở TP.HCM sẽ đo nồng độ cồn cả ngày lẫn đêm.

Đo nồng độ cồn cả ngày lẫn đêm

Đại diện Phòng CSGT (PC08) Công an TP.HCM cho biết theo kế hoạch từ ngày 24/11 đến trước Tết Nguyên đán 2024, CSGT TP.HCM chia làm 10 cụm, trong đó năm cụm kiểm tra nồng độ cồn khu vực trung tâm và năm cụm ở vùng ven. Các cụm được kết hợp giữa lực lượng CSGT quận, huyện, TP Thủ Đức phối hợp các đội, trạm thuộc PC08 ở gần nhau.

Các cụm này thực hiện kế hoạch, chuyên đề kiểm tra nồng độ cồn cả ngày lẫn đêm trên các tuyến đường và địa bàn của các đội, trạm trong cụm đó đảm trách. Mỗi ngày chia ra làm bốn ca, mỗi ca sáu tiếng. Mỗi ca tuần tra, kiểm soát của mỗi cụm có khoảng 20 cán bộ chiến sĩ tham gia xử lý vi phạm, địa điểm kiểm tra thay đổi tùy theo tình hình thực tế.

Lực lượng cảnh sát giao thông TP.HCM kiểm tra nồng độ cồn vào ban ngày - Ảnh: MINH HÒA
Lực lượng cảnh sát giao thông TP.HCM kiểm tra nồng độ cồn vào ban ngày – Ảnh: MINH HÒA

Theo đại diện PC08, việc triển khai kiểm tra theo cụm sẽ lợi thế hơn; từng cụm sẽ được lập chốt, tuần tra, kiểm soát khu vực rộng hơn. CSGT sẽ chủ động đổi địa bàn tuần tra, kiểm soát để luân phiên khu vực tuần tra, đảm bảo nguyên tắc không bị trùng lặp hoặc bỏ sót địa bàn.

Việc triển khai theo cụm sẽ góp phần phòng ngừa, ngăn chặn, kéo giảm các vụ tai nạn giao thông do nồng độ cồn, chất kích thích gây ra.

Kiểm tra không có nồng độ cồn, cảnh sát mời tiếp tục đi!

Một cán bộ CSGT ở TP.HCM cho biết việc đo nồng độ cồn vào ban ngày là thực hiện theo kế hoạch và vẫn phát hiện trường hợp vi phạm. Theo cán bộ này, ban ngày vẫn có người đi nhậu và vi phạm nhưng ít hơn so với ban đêm.

Nếu biết sáng mai mình đi làm sớm thì có thể đêm trước mình không nhậu. Còn nếu đã nhậu thì phải biết kiểm soát tửu lượng. Nếu chắc chắn hơn thì sáng mai mình có thể di chuyển bằng xe công nghệ, xe công cộng hoặc nhờ người khác chở“, vị cán bộ này nói.

Nhiều người đi đường tỏ ra khá bất ngờ khi thấy CSGT kiểm tra nồng độ cồn vào ban ngày. Lúc 12h45, CSGT dừng xe máy ông N.X.T. (41 tuổi, ngụ huyện Bình Chánh) kiểm tra. Ông T. có kết quả đo nồng độ cồn là 0,04mg/l khí thở (chưa vượt quá 0,25mg/l khí thở). Ông T. bị lập biên bản và sẽ bị phạt tiền từ 2 – 3 triệu đồng, tước giấy phép lái xe từ 10 – 12 tháng, tạm giữ xe 7 ngày.

5 đội CSGT phối hợp thành cụm công tác đo nồng độ cồn ở khu vực trung tâm
5 đội CSGT phối hợp thành cụm công tác đo nồng độ cồn ở khu vực trung tâm

Ông T. cho biết buổi trưa có ăn cơm với đối tác và chỉ “nhấp môi” một ly bia để dùng bữa cho ngon miệng nhưng đã bị CSGT phát hiện và lập biên bản. “Buổi trưa tưởng công an không kiểm tra nồng độ cồn, lúc nãy có ngồi ăn cơm trưa và uống một ly bia, vẫn tỉnh táo chạy xe bình thường“, ông T. phân trần.

Còn ông Nguyễn Đức Hùng (55 tuổi, ngụ TP Thủ Đức) bị CSGT dừng xe kiểm tra. Sau khi kiểm tra không có nồng độ cồn, CSGT cảm ơn và mời ông tiếp tục đi. Ông Hùng cho biết trước đây CSGT thường kiểm tra nồng độ cồn vào ban đêm nhưng hiện nay bất ngờ khi thấy CSGT yêu cầu dừng xe kiểm tra nồng độ cồn vào ban ngày.

Xem thêm >> CSGT TPHCM kiểm tra vi phạm nồng độ cồn hàng ngàn người trên đường Hoàng Sa

Trong khi đó, ông Lê Thọ (trú tại quận Phú Nhuận) cho rằng có người say xỉn lái xe nhưng không phải vụ tai nạn giao thông nào cũng do nồng độ cồn gây ra.

Cần xác định thời gian dễ phát sinh tai nạn giao thông do người đi xe có nồng độ cồn để lập chốt kiểm tra” – ông Thọ nói và nêu thực trạng vào ban ngày, giờ cao điểm người dân đi học, đi làm nhưng bị dừng xe kiểm tra nồng độ cồn như vừa qua là không hợp lý lắm.

Theo Tuổi trẻ

CSGT TPHCM kiểm tra vi phạm nồng độ cồn hàng ngàn người trên đường Hoàng Sa

Từ tối đến khuya 30/11, Tổ công tác thuộc cụm 3, CSGT Công an TPHCM đã tổ chức kiểm tra hàng ngàn lượt ô tô, xe máy trên tuyến đường Hoàng Sa, phường Tân Định, Quận 1, TPHCM phát hiện 9 trường hợp vi phạm độ cồn ở mức “khủng”.

CSGT TPHCM kiểm tra phát hiện nhiều trường hợp vi phạm nồng độ cồn trên đường Hoàng Sa

Theo ghi nhận, một người đàn ông tên D cho kết quả 0.467mg/ lít khí thở. Theo con gái của ông trước khi lái xe về, cha của mình đã nhậu với đối tác tại một quán trên địa bàn quận 1.

“Em biết việc cha nhậu mà lái xe máy là không an toàn và vi phạm pháp luật, mặc dù em đã nhắc nhở cha nhưng không được”, con gái ông D. nói.

Với lỗi vi phạm trên, ông D. bị CSGT lập biên bản vi phạm hành chính và sẽ bị xử phạt số tiền từ 6-8 triệu đồng, tước giấy phép lái xe 22-24 tháng, tạm giữ xe 7 ngày.

Tương tự, uống 1 ly bia với bạn tại bữa tiệc rồi chở bạn gái về nhà thì bị CSGT đo cồn. Anh B.V.K.H (SN 1996, quê Lâm Đồng) thừa nhận có uống tý bia.

Qua kiểm tra và đo thực tế, anh H. cho kết quả 0.077mg/ lít khí thở.

Anh N.T.T. (quê Quảng Nam) sau khi bị CSGT phát hiện có độ cồn và mời vào bên trong kiểm tra, người này cho biết không uống rượu bia, chỉ ăn ít trái cây.

Tuy nhiên, qua kiểm tra anh T. có kết quả 0.281mg/ lít khí thở. Lúc này, anh T. mới thừa nhận đã sử dụng vài ly rượu và ký vào biên bản vi phạm hành chính.

Trong nhiều giờ, tổ công tác đã kiểm tra 1.225 lượt phương tiện ô tô xe máy và phát hiện 9 trường hợp vi phạm độ cồn, chủ yếu là người đi xe máy.

Ngoài ra, nhiều người khác cũng được lực lượng chức năng test nhanh với ma túy và các kết quả đều cho ra âm tính.

Ngày 30/11, tổ công tác gồm Đội CSGT Bến Thành, Đội CSGT Bàn Cờ (Phòng PC08) và Đội CSGT – trật tự Công an Quận 3 lập chốt kiểm tra nồng độ cồn tại giao lộ Lý Chính Thắng – Trương Định, phường 9, quận 3 phát hiện xử phạt nhiều người nhậu buổi trưa, vi phạm nồng độ cồn…

CSGT TPHCM kiểm tra phát hiện nhiều trường hợp vi phạm nồng độ cồn
CSGT TPHCM kiểm tra phát hiện nhiều trường hợp vi phạm nồng độ cồn

XEM THÊM>>Uống rượu từ trưa, tối ra ngoài vẫn bị phạt

Nhậu rượu thuốc dễ ngủ buổi trưa bị CSGT xử phạt 2.5 triệu đồng

Theo ghi nhận lúc 13h45, ông P.V.B. (59 tuổi, ngụ quận 7) lái xe máy trên đường Lý Chính Thắng, hướng về Nam Kỳ Khởi Nghĩa. Khi đến dừng đèn đỏ tại giao lộ Lý Chính Thắng – Trương Định, ông B. bị CSGT kiểm tra, phát hiện nồng độ cồn mức 0,034mg/lít khí thở.

Ông B. cho biết, bản thân làm công việc nhân viên văn phòng. Trong lúc ăn trưa với đồng nghiệp, ông uống nửa ly bia rồi chạy về công ty cách quán khoảng 100m.

Với nồng độ cồn mức 0,034mg/lít khí thở, ông B. bị CSGT xử phạt 2,5 triệu đồng.

Khoảng 20 phút sau, ông N.T.N. (58 tuổi, ngụ quận 1) lái xe máy dừng đèn đỏ tại giao lộ trên cũng bị CSGT kiểm tra. Quá trình kiểm tra, ông N. có nồng độ cồn 0,215mg/lít khí thở, bị tổ công tác lập biên bản xử phạt 2,5 triệu đồng.

Ông N. cho biết, trưa nay ăn cơm, ông uống 2 ly rượu thuốc cho dễ ngủ. Đến chiều, ông lái xe ra ngân hàng làm một số giấy tờ thì bị CSGT kiểm tra xử phạt.

“Tôi cứ nghĩ CSGT kiểm tra nồng độ cồn vào ban đêm thôi, ai ngờ làm việc luôn giữa ban ngày như vậy. Từ giờ trở đi tôi sẽ không lái xe khi đã có chút men rượu trong người”, ông N. nói.

Ông N. cho biết chỉ uống 2 ly rượu thuốc cho dễ ngủ trưa.
Ông N. cho biết chỉ uống 2 ly rượu thuốc cho dễ ngủ trưa.

Chiều cùng ngày, một tài xế khác tại chốt này vi phạm nồng độ cồn cũng bị tổ công tác lập biên bản xử phạt.

TIN LIÊN QUAN>>Không uống rượu bia máy đo CSGT vẫn báo có nồng độ cồn phải làm sao?

Nhậu từ tối hôm qua vẫn bị dính vi phạm nồng độ cồn 

Trước đó, ngày 14/11, Đội CSGT – Trật tự Công an quận 1 (TP.HCM) cũng đã lập biên bản một tài xế xe khách vi phạm nồng độ cồn tại khu vực trung tâm TP.HCM.

Cụ thể, tổ công tác Đội CSGT – Trật tự Công an quận 1 tuần tra trên đường Yersin, dừng kiểm tra xe khách 10 chỗ BKS 72B-023.90.

CSGT phát hiện nam tài xế tên N.M.T. (37 tuổi, quê Bà Rịa – Vũng Tàu) có nồng độ cồn mức 0,146mg/lít khí thở, lập biên bản xử phạt 7 triệu đồng, tước bằng lái 11 tháng.

Làm việc tổ công tác, tài xế T. cho biết, khoảng 17h ngày 13/11, ông có nhậu khi đi tiệc. Sáng nay, ông đi tập thể dục nhưng không hiểu sao vẫn còn cồn trong hơi thở.

Theo công an, tài xế N.M.T. lái xe khách chạy tuyến TP.HCM – Vũng Tàu. Trước đó, nhà xe này đã ký biên bản là tuân thủ không để tài xế chạy xe có nồng độ cồn khi đang chở khách.

XEM THÊM:

Khi nào chứng minh nhân dân không còn được sử dụng?

Một vấn đế nóng vừa được Quốc hội thông qua liên quan đến Luật Căn cước và sẽ chính thức đổi tên và sửa đổi nhiều quy định. Đáng chú ý Chứng minh nhân dân (CMND) sẽ không còn được sử dụng nữa…Mời quí vị cùng xuphat.com theo dõi thông tin chi tiết để có thêm kiến thức tránh bị xử phạt, quí vị nhé…

Từ năm 2025, chứng minh nhân dân sẽ không còn được sử dụng 

Theo Điều 2 Nghị định 05/1999/NĐ-CP được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định 170/2007/NĐ-CP, CMND có giá trị sử dụng 15 năm kể từ ngày cấp (dù là CMND 9 số hay 12 số).

Trong khi đó, thực tế từ ngày 01/01/2021, Bộ Công an đã triển khai cấp CCCD gắn chip thay cho CMND, CCCD mã vạch.

Theo đó, những công dân đã được cấp Chứng minh nhân dân, Căn cước công dân mã vạch từ cuối năm 2020 được tiếp tục sử dụng đến hết năm 2035.

Và bắt đầu từ năm 2036, cả Chứng minh nhân dân lẫn CCCD mã vạch chính thức bị “khai tử”, việc sử dụng CMND, CCCD mã vạch sau thời điểm này là không còn có giá trị.

Như vậy, đáng ra theo quy định trên thì Chứng minh nhân dân cấp từ cuối năm 2020 được dùng đến cuối năm 2035 (theo đúng quy định về giá trị hiệu lực 15 năm của loại giấy tờ này).

Và từ năm 2036, nếu công dân vẫn dùng CMND mà chưa đổi sang CCCD gắn chip mới bị phạt.

Tuy nhiên, Điều 46 Quy định chuyển tiếp tại dự thảo Luật Căn cước (mới đây đã được Quốc hội thông qua) có quy định rằng:

Đối với thẻ Căn cước công dân đã được cấp trước ngày Luật Căn cước có hiệu lực thi hành vẫn có giá trị sử dụng đến hết thời hạn được ghi trong thẻ, có thể được cấp đổi sang thẻ Căn cước khi công dân có yêu cầu.

Tuy nhiên đối với Chứng minh nhân dân còn thời hạn sử dụng thì được sử dụng đến hết ngày 31/12/2024. Bên cạnh đó, Chứng minh nhân, Căn cước công dân dân hết hạn sử dụng từ ngày 15/01/2024 – trước ngày 30/6/2024 thì tiếp tục có giá trị sử dụng đến hết ngày 30/6/2024.

Theo đó, các loại giấy tờ có giá trị pháp lý đã phát hành có sử dụng thông tin từ Chứng minh nhân dân, thẻ Căn cước công dân vẫn giữ nguyên giá trị sử dụng.

Khoản 3 Điều 46 dự thảo Luật này cũng khẳng định, cơ quan quản lý nhà nước không được quy định thủ tục riêng về thay đổi, điều chỉnh thông tin về Chứng minh nhân dân, thẻ Căn cước công dân trong giấy tờ đã cấp.

Như vậy, CMND được dùng đến thời điểm hết 31/12/2024, từ 01/01/2025 loại giấy tờ này không còn giá trị sử dụng.

CMND được dùng đến thời điểm hết 31/12/2024
CMND được dùng đến thời điểm hết 31/12/2024

5 loại giấy tờ cần cập nhật khi đổi từ CMND sang Căn cước gắn chip

Cập nhật thông tin bảo hiểm xã hội/VssID

Sổ Bảo hiểm xã hội (BHXH), thẻ Bảo hiểm y tế (BHYT) của công dân không thể hiện trực tiếp thông tin số CMND/CCCD trên sổ. Do đó, không cần làm thủ tục đổi sổ BHXH, thẻ BHYT mới khi đổi từ CMND qua thẻ CCCD gắn chip.

Tuy nhiên, để thực hiện các thủ tục liên quan như tra cứu quá trình tham gia BHXH, tra cứu thời hạn BHYT…thì cần thực hiện cập nhật thông tin hồ sơ BHXH, thẻ BHYT. Việc cập nhật này có thể thực hiện online.

Cập nhật thông tin trên sổ đỏ

Thông tư 14/2023/TT-BTNMT sửa đổi, bổ sung quy định về việc ghi thông tin người sử dụng đất, chủ sở hữu tài sản gắn liền với đất trên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất từ ngày 16/10/2023.

Theo đó, cá nhân trong nước thì ghi “Ông” (hoặc “Bà”), sau đó ghi họ tên, năm sinh, tên và số giấy tờ nhân thân (nếu có), địa chỉ thường trú.

Giấy tờ nhân thân là Giấy chứng minh nhân dân thì ghi “CMND số:…”; trường hợp Giấy chứng minh quân đội nhân dân thì ghi “CMQĐ số:…”; trường hợp thẻ Căn cước công dân thì ghi “CCCD số:…”;

Nếu chưa có Giấy chứng minh nhân dân hoặc thẻ Căn cước công dân thì ghi “Giấy khai sinh số…” hoặc “số định danh cá nhân”.

Có thể thấy, thông tin số CMND/CCCD của người sử dụng, sở hữu đất đai được ghi nhận trên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất

Tuy việc thay đổi số CMND/CCCD không làm ảnh hưởng đến quyền sử dụng đất và cũng không bắt buộc người sử dụng đất phải cập nhật thay đổi. Tuy nhiên, để tránh những rủi ro trong các giao dịch mua bán (nếu có) về sau, chủ sở hữu đất nên cập nhật thông tin cho khớp số trên thẻ CCCD gắn chip.

Thay đổi thông tin đăng ký thuế

Căn cứ quy định tại khoản 2, Điều 36 Luật Quản lý thuế 2019 thì người nộp thuế đăng ký thuế trực tiếp với cơ quan thuế nếu có thay đổi thông tin đăng ký thuế thì phải thông báo cho cơ quan thuế quản lý trực tiếp trong thời hạn 10 ngày làm việc kể từ ngày phát sinh thông tin thay đổi.

Do đó, trong trường hợp người nộp thuế là cá nhân đăng ký thuế trực tiếp với cơ quan thuế thì khi thay đổi thông tin đăng ký thuế (ví dụ CMND, CCCD…) thì phải thông báo đến cơ quan thuế để được cập nhật, chỉnh sửa.

Đối với cá nhân có ủy quyền cho tổ chức, cá nhân chi trả thu nhập thực hiện đăng ký thay đổi thông tin đăng ký thuế cho cá nhân và người phụ thuộc thì thông báo cho tổ chức, cá nhân chi trả thu nhập chậm nhất là 10 ngày làm việc kể từ ngày phát sinh thông tin thay đổi.

Hộ chiếu

Người được cấp giấy tờ xuất nhập cảnh phải làm thủ tục cấp mới Hộ chiếu khi giấy tờ xuất nhập cảnh bị hỏng, thay đổi thông tin về nhân thân, đặc điểm nhận dạng, xác định lại giới tính. Đây là quy định tại thoản 1, Điều 23 Luật Xuất cảnh, nhập cảnh của công dân Việt Nam 2019.

Việc thay đổi số CMND thành số CCCD gắn chip được xem là thay đổi thông tin nhân thân nên thuộc trường hợp phải cấp đổi hộ chiếu. Do đó, khi đổi từ CMND sang Căn cước gắn chip, công dân phải thực hiện thủ tục cấp mới Hộ chiếu.

Thông tin tài khoản ngân hàng

Theo quy định của Ngân hàng Nhà nước nói chung và các Ngân hàng nói chung, khi thực hiện các giao dịch tại ngân hàng người dân bắt buộc xuất trình giấy tờ tùy thân có ảnh như CMND/CCCD/hộ chiếu còn hạn.

Do vậy khi đổi từ CMND sang CCCD gắn chip, các thông tin tại ngân hàng sẽ không khớp với giấy tờ tùy thân.

Để đảm bảo thực hiện thông suốt các giao dịch tại ngân hàng, người dân nên đến ngân hàng thay đổi lại thông tin liên quan giấy tờ tùy thân.

XEM THÊM

Không khởi tố thiếu niên đi xe phân khối lớn tông thai phụ tử vong

Liên quan vụ  thiếu niên điều khiển xe phân khối lớn tông người phụ nữ mang thai tử vong.Công an TP Buôn Ma Thuột (Đắk Lắk) đã kết thúc điều tra và ra quyết định không khởi tố vụ án vì cả 2 đều ” có hành vi “Vô ý làm chết người” theo quy định tại Khoản 1, Điều 128 Bộ luật Hình sự năm 2015. Mời quí vị tiếp tục theo dõi chi tiết vụ việc đau lòng này…

Vì sao không khởi tố vụ tai nạn thiếu niên đi xe phân khối lớn gây tai nạn chết người?

Ngày 29/11, Công an tỉnh Đắk Lắk cho biết, cơ quan Cảnh sát điều tra Công an TP Buôn Ma Thuột đã có kết luận điều tra vụ tai nạn giao thông khiến thiếu niên điều khiển xe phân khối lớn và người phụ nữ mang thai tử vong.

Không khởi tố vụ tai nạn thiếu niên đi xe phân khối lớn gây tai nạn
Không khởi tố vụ tai nạn thiếu niên đi xe phân khối lớn gây tai nạn

Theo điều tra, khoảng 15h44 ngày 2/7 trên Đại lộ Đông – Tây (nay là đường Võ Nguyên Giáp, phường Tự An, TP Buôn Ma Thuột), thiếu niên Phạm Nguyên C (SN 2007, trú phường Tân Tiến, TP Buôn Ma Thuột) điều khiển mô tô BKS 47A1- 007.31 lưu thông theo hướng Trần Quý Cáp – Đinh Tiên Hoàng đã va chạm với xe máy BKS 47B3 – 072.64 do chị Nguyễn Thị H (SN 1999, trú xã Hòa Khánh, TP Buôn Ma Thuột) đi theo hướng ngược lại.

Hậu quả, vụ va chạm làm chị H tử vong tại chỗ, C bị thương được cấp cứu tại Bệnh viện Đa khoa Vùng Tây Nguyên nhưng sau đó tử vong. Hai phương tiện bị hư hỏng.

Tiếp nhận tin báo về vụ tai nạn, Công an TP Buôn Ma Thuột tiến hành các hoạt động điều tra xác minh theo quy định.

Căn cứ các tài liệu, chứng cứ thu thập được, cơ quan CSĐT Công an TP Buôn Ma Thuột xác định chị H (không có giấy phép lái xe, không sử dụng chất có cồn) điều khiển xe đi không đúng phần đường quy định và chuyển hướng không an toàn, tông vào phía trước xe do C điều khiển.

Hậu quả làm thiếu niên C tử vong nên chị H đã có hành vi “Vô ý làm chết người” theo quy định tại Khoản 1, Điều 128 Bộ luật Hình sự năm 2015″. Tuy nhiên, chị H đã tử vong nên không đề cập xử lý.

Thiếu niên Phạm Nguyên C (không sử dụng chất cồn, âm tính với chất ma túy) điều khiển mô tô khi chưa đủ 18 tuổi, không làm chủ tốc độ và tay lái nên đã tông vào phía trước xe do chị H cầm lái. Hậu quả, chị H tử vong.

Thiếu niên C đã có hành vi “Vô ý làm chết người” nhưng C đã tử vong nên không đề cập xử lý.

Ngoài ra, chủ hai chiếc xe trên không có hành vi giao xe cho hai người điều khiển phương tiện nên không đề cập xử lý. Do đó, cơ quan CSĐT Công an TP Buôn Ma Thuột kết thúc xác minh, ra quyết định không khởi tố vụ án hình sự.

LIÊN QUAN>>Tội vô ý làm chết người lãnh án bao nhiêu năm tù?

Vụ điều tra tai nạn chết người phức tạp suốt 2 tháng

Trước đó, Đại tá Nguyễn Văn Quy, Trưởng phòng Tham mưu, người phát ngôn Công an tỉnh Đắk Lắk cho biết, do vụ tai nạn có tính chất phức tạp, Công an TP Buôn Ma Thuột đã gia hạn điều tra thêm 2 tháng, kể từ ngày 6/9 đến ngày 6/11/2023 để điều tra.

Trước đó, xảy ra vào chiều 2/7, Phạm Nguyên C (16 tuổi, ngụ phường Tân Tiến, TP Buôn Ma Thuột, Đắk Lắk) điều khiển xe mô tô phân khối lớn mang biển số 47A1 – 007.31 lưu thông trên Đại lộ Đông Tây (theo hướng xã Hòa Thắng đi trung tâm TP Buôn Ma Thuột).

Khi di chuyển trên đường, xe của C bất ngờ va chạm với xe máy biển số 47B3 – 072.94 do chị Nguyễn Thị H (25 tuổi, ngụ phường Khánh Xuân, TP Buôn Ma Thuột) điều khiển.

Vụ tai nạn, khiến chị H (đang mang thai tháng thứ 5) tử vong tại chỗ. Còn C bị thương nặng, được đưa đi cấp cứu nhưng tử vong sau đó 4 giờ.

Được biết, chiếc xe phân khối lớn mà C điều khiển do ông P.V.L, cha của C đứng tên chủ sở hữu. Xe đăng ký lần đầu ngày 26/7/2022.

TIN LIÊN QUAN

Tội vô ý làm chết người lãnh án bao nhiêu năm tù?

Cùng là hành vi gây ra hậu quả làm chết người nhưng pháp luật hình sự lại quy định tội “giết người” và “vô ý làm chết người” ở hai điều luật và mức xử phạt khác nhau. xuphat.com mời quí vị cùng theo dõi giải đáp thắc mắc của rất nhiều người này để nâng cao kiến thức hiểu biết pháp luật của mình khi gặp những tình huống như thế này…

Phân biệt tội giết người và tội vô ý làm chết người

Người phạm tội giết người: là người thực hiện hành vi với lỗi cố ý, có nghĩa là cố ý thực hiện hành vi tước đoạt tính mạng người khác, nhìn thấy hậu quả xảy ra và mong muốn cho hậu quả xảy ra. Còn người phạm tội vô ý làm chết người là do lỗi vô ý, do cẩu thả hoặc quá tự tin mà không nghĩ rằng sẽ xảy ra hậu quả chết người.

Thứ hai, về hậu quả của hành vi phạm tội, với tội giết người, hậu quả chết người không phải là căn cứ bắt buộc để định tội mà còn có trường hợp phạm tội chưa đạt còn với tội vô ý làm chết người, hậu quả chết người là dấu hiệu bắt buộc để định tội danh.

Tội vô ý làm chết người: là hành vi của một người vô tình làm cho người khác bị chết. Người phạm tội thường không thấy trước được hậu quả chết người do hành vi của mình gây ra. Tội vô ý làm chết người thường xảy ra trong 1 số trường hợp đặc thù như: người đi săn tưởng người là thú nên đã bắn nhầm làm chết người; bác sĩ do quá cẩu thả đã sai sót trong quá trình cấp cứu, khiến người bệnh tử vong…

Tội vô ý làm chết người là tội xâm phạm đến tính mạng của người khác quy định tại Điều 128 Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi, bổ sung 2017.

Một vụ TNGT được cho là vô ý làm chết người
Một vụ TNGT được cho là vô ý làm chết người

Hành vi vô ý làm chết người bị xử phạt tù bao nhiêu năm?

Người phạm tội vô ý làm chết người sẽ phải chịu hình phạt theo quy định tại Điều 128 Bộ luật Hình sự như sau:

Khung hình phạt Hành vi phạm tội
Khung 1: Phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm. Hành vi vô ý làm chết người (01 người)
Khung 2: Phạt tù từ 03 năm đến 10 năm Hành vi vô ý làm chết 02 người trở lên.

Như vậy, người phạm tội vô ý làm chết người sẽ phải đối mặt với hình phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm hoặc từ 03 năm đến 10 năm. 

TIN HOT>>Tài xế tông chết bảo vệ khóa bánh ô tô bị buộc tội giết người

Cứu giúp nhưng vô ý làm chết người có bị truy cứu trách nhiệm hình sự không?

Về việc vô ý phạm tội, Điều 11 Bộ luật Hình sự quy định hành vi vô ý phạm tội như sau:

  • Người phạm tội tuy thấy trước hành vi của mình có thể gây ra hậu quả nguy hại cho xã hội nhưng cho rằng hậu quả đó sẽ không xảy ra hoặc có thể ngăn ngừa được;
  • Người phạm tội không thấy trước hành vi của mình có thể gây ra hậu quả nguy hại cho xã hội, mặc dù phải thấy trước và có thể thấy trước hậu quả đó.

Như vậy, khi thực hiện hành vi cứu giúp người khác nhưng đã có lỗi vô ý gây ra hậu quả làm chết người, pháp luật yêu cầu phải nhận thức được hậu quả chết người có thể xảy ra mà không căn cứ vào mục đích cứu giúp khi thực hiện hành vi.

Vì vậy, người cứu giúp người khác có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội vô ý làm chết người theo Điều 128 Bộ luật Hình sự khi thỏa mãn các cấu thành của tội phạm.

Mục đích cứu giúp người khác nhưng lại vô ý làm chết người khác vẫn có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội vô ý làm chết người.
Mục đích cứu giúp người khác nhưng lại vô ý làm chết người khác vẫn có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội vô ý làm chết người.

TIN HOT>>Nghịch tử 14 tuổi bỏ thuốc độc vào hộp sữa giết cha và bà nội

Căn cứ giảm nhẹ hình phạt người cứu giúp nhưng vô ý làm chết người

Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại Khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự như sau:

  • Người phạm tội đã ngăn chặn hoặc làm giảm bớt tác hại của tội phạm;
  • Người phạm tội tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại hoặc khắc phục hậu quả;
  • Phạm tội trong trường hợp vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng;
  • Phạm tội trong trường hợp vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết;
  • Phạm tội trong trường hợp vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội;
  • Phạm tội trong trường hợp bị kích động về tinh thần do hành vi trái pháp luật của nạn nhân gây ra;
  • Phạm tội vì hoàn cảnh đặc biệt khó khăn mà không phải do mình tự gây ra;
  • Phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại hoặc gây thiệt hại không lớn;
  • Phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng;
  • Phạm tội vì bị người khác đe dọa hoặc cưỡng bức;
  • Phạm tội trong trường hợp bị hạn chế khả năng nhận thức mà không phải do lỗi của mình gây ra;
  • Phạm tội do lạc hậu;
  • Người phạm tội là phụ nữ có thai;
  • Người phạm tội là người đủ 70 tuổi trở lên;
  • Người phạm tội là người khuyết tật nặng hoặc khuyết tật đặc biệt nặng;
  • Người phạm tội là người có bệnh bị hạn chế khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình;
  • Người phạm tội tự thú;
  • Người phạm tội thành khẩn khai báo hoặc ăn năn hối cải;
  • Người phạm tội tích cực giúp đỡ các cơ quan có trách nhiệm phát hiện hoặc điều tra tội phạm;
  • Người phạm tội đã lập công chuộc tội;
  • Người phạm tội là người có thành tích xuất sắc trong sản xuất, chiến đấu, học tập hoặc công tác;
  • Người phạm tội là cha, mẹ, vợ, chồng, con của liệt sĩ, người có công với cách mạng.

Như vậy, dựa trên các quy định về căn cứ xem xét tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, mục đích muốn cứu người ban đầu không rơi vào các tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại khoản 1 quy định trên. Tuy nhiên Tòa án có thể xem đây là trường hợp thuộc tình tiết giảm nhẹ khác theo khoản 2 Điều 51 Bộ Luật Hình sự.

Ngoài ra, tùy vào các yếu tố khác người phạm tội có thể được giảm nhẹ trách nhiệm hình sự khi các cấu thành của tội phạm có các tình tiết giảm nhẹ nêu trên.

XEM THÊM :

 

xe oto phạt nguộiTRA CỨU
PHẠT NGUỘI