Nhiều người vì muốn công việc thuận lợi, đạt mục đích, chấp nhận bỏ một số tiền lớn để “bôi trơn”. Điều đáng nói, có người biết đây là hành vi vi phạm pháp luật, cấu thành tội đưa hối lộ có thể bị xử phạt nặng nhưng vẫn bất chấp. Tuy nhiên cũng có người phái vướng vòng lao lý vì thiếu hiểu biết, nghĩ rằng không phạm tội…
Theo quy định tại Điều 364 Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi, bổ sung 2017 về tội đưa hối lộ, phạm tội trong trường hợp của hối lộ là tiền, tài sản, lợi ích vật chất khác trị giá 1.000.000.000 đồng trở lên, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm.
Hành vi đưa, nhận hối lộ là gì?
– Theo Điều 354 Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017, nhận hối lộ là hành vi của người có chức vụ, quyền hạn trực tiếp hoặc trung gian nhận hoặc sẽ bất kỳ lợi ích nào cho chính bản thân người đó hoặc cho người hoặc tổ chức khác để làm hoặc không làm một việc vì lợi ích hoặc theo yêu cầu của người đưa hối lộ.
– Theo Điều 364 Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017, đưa hối lộ là hành vi của một người trực tiếp hay qua trung gian đã đưa hoặc sẽ đưa cho người có chức vụ, quyền hạn hoặc người khác hoặc tổ chức khác bất kỳ lợi ích nào sau đây để người có chức vụ, quyền hạn làm hoặc không làm một việc vì lợi ích hoặc theo yêu cầu của người đưa hối lộ.
Bên cạnh đó, theo Điều 2 Luật Phòng, chống tham nhũng 2018, đưa, nhận hối lộ là một trong các hành vi tham nhũng.

Xử lý hình sự với hành vi đưa, nhận hối lộ
Đưa hối lộ
Điều 364 Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 quy định: Người nào trực tiếp hay qua trung gian đã đưa hoặc sẽ đưa cho người có chức vụ, quyền hạn hoặc người khác hoặc tổ chức khác bất kỳ lợi ích nào sau đây để người có chức vụ, quyền hạn làm hoặc không làm một việc vì lợi ích hoặc theo yêu cầu của người đưa hối lộ thì có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội đưa hối lộ với mức phạt cao nhất lên đến 20 năm tù.
Nhận hối lộ
Điều 354 Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 quy định: Người nào lợi dụng chức vụ, quyền hạn trực tiếp hoặc qua trung gian nhận hoặc sẽ nhận bất kỳ lợi ích nào sau đây cho chính bản thân người đó hoặc cho người hoặc tổ chức khác để làm hoặc không làm một việc vì lợi ích hoặc theo yêu cầu của người đưa hối lộ thì có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội nhận hối lộ với mức hình phạt cao nhất là tử hình.
Xử lý hành chính với hành vi đưa, nhận hối lộ
Điiều 9, Điều 21 Nghị định 144/2021/NĐ-CP quy định: Người có hành vi đưa, nhận hối lộ có thể bị xử lý hành chính với các mức như sau:
– Phạt tiền từ 2.000.000 đồng đến 4.000.000 đồng đối với hành vi đưa, môi giới, nhận hối lộ trong việc đăng ký, quản lý cư trú.
– Phạt tiền từ 6.000.000 đồng đến 8.000.000 đồng đối với hành vi đưa tiền, tài sản, lợi ích vật chất khác hoặc lợi ích phi vật chất hối lộ cho người thi hành công vụ.
Xử lý kỷ luật với hành vi đưa, nhận hối lộ
Khoản 4 Điều 8, khoản 5 Điều 16, khoản 2 Điều 30, khoản 2 Điều 37 Nghị định 112/2020/NĐ-CP quy định: Cán bộ, công chức, viên chức có hành vi vi phạm quy định về phòng, chống tham nhưng chưa đến mức bị truy cứu trách nhiệm hình sự thì bị áp dụng thức thức kỷ luật khiển trách hoặc cảnh cáo.
Đối với cán bộ, công chức giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý thì có thể bị áp dụng hình thức kỷ luật giáng chức hoặc cách chức.
Trường hợp công chức, viên chức bị Tòa án kết án về hành vi tham nhũng, trong thời hạn 15 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được quyết định, bản án có hiệu lực pháp luật của Tòa án, cấp có thẩm quyền xử lý kỷ luật ra quyết định kỷ luật buộc thôi việc.

Chủ động khai báo có thể được miễn trách nhiệm hình sự
Khoản 7, khoản 8, Điều 364 về tội đưa hối lộ quy định: “Người bị ép buộc đưa hối lộ mà chủ động khai báo trước khi bị phát giác, thì được coi là không có tội và được trả lại toàn bộ của đã dùng để đưa hối lộ. Người đưa hối lộ tuy không bị ép buộc nhưng đã chủ động khai báo trước khi bị phát giác, thì có thể được miễn trách nhiệm hình sự và được trả lại một phần hoặc toàn bộ của đã dùng để đưa hối lộ.”
“Với trường hợp đưa hối lộ chưa đến mức xử lý hình sự hoặc khi đã được miễn truy cứu trách nhiệm hình sự thì người đưa hối lộ vẫn có thể bị xử lý hành chính theo các luật chuyên ngành, các văn bản pháp lý chuyên ngành về xử lý hành chính đã có quy định…”
XEM THÊM: