Tra cứu mức phạt

Tra cứu mức phạt

Không nhường đường cho người đi bộ bị phạt bao nhiêu?

Đây là một lỗi phổ biến mà các tài xế hay mắc phải hoặc không chú ý, dễ gây tai nạn cho người khác đặc biệt ở những tuyến đường đông người qua lại như bệnh viện, trường học, ngã tư không có vạch kẻ đường…

Những quy định dành cho người đi bộ

Theo quy định tại Điều 32 Luật Giao thông đường bộ (Luật số: 23/2008/QH12, ngày 13/11/2008) về vấn đề người đi bộ tham gia giao thông phải thực hiện để đảm bảo an toàn. Nếu không tuân thủ quy định sẽ bị xử phạt theo pháp luật. Cụ thể:

– Người đi bộ phải đi trên hè phố, lề đường; trường hợp đường không có hè phố, lề đường thì người đi bộ phải đi sát mép đường.

– Người đi bộ chỉ được qua đường ở những nơi có đèn tín hiệu, có vạch kẻ đường hoặc có cầu vượt, hầm dành cho người đi bộ và phải tuân thủ tín hiệu chỉ dẫn.

– Trường hợp không có đèn tín hiệu, không có vạch kẻ đường, cầu vượt, hầm dành cho người đi bộ thì người đi bộ phải quan sát các xe đang đi tới, chỉ qua đường khi bảo đảm an toàn và chịu trách nhiệm bảo đảm an toàn khi qua đường.

– Người đi bộ không được vượt qua dải phân cách, không đu bám vào phương tiện giao thông đang chạy; khi mang vác vật cồng kềnh phải bảo đảm an toàn và không gây trở ngại cho người và phương tiện tham gia giao thông đường bộ.

– Trẻ em dưới 7 tuổi khi đi qua đường đô thị, đường thường xuyên có xe cơ giới qua lại phải có người lớn dắt; mọi người có trách nhiệm giúp đỡ trẻ em dưới 7 tuổi khi đi qua đường.

Bên cạnh đó, việc chấp hành báo hiệu đường bộ có hoặc không có vạch kẻ đường được quy định theo Khoản 4, Điều 11 Luật Giao thông đường bộ 2008 như sau:

– Tại nơi có vạch kẻ đường dành cho người đi bộ, người điều khiển phương tiện phải quan sát, giảm tốc độ và nhường đường cho người đi bộ, xe lăn của người khuyết tật qua đường.

– Những nơi không có vạch kẻ đường cho người đi bộ, người điều khiển phương tiện phải quan sát, nếu thấy người đi bộ, xe lăn của người khuyết tật đang qua đường thì phải giảm tốc độ, nhường đường cho người đi bộ, xe lăn của người khuyết tật qua đường bảo đảm an toàn.

Lỗi vi phạm không nhường đường cho người đi bộ
Lỗi vi phạm không nhường đường cho người đi bộ

Những trường hợp phải nhường đường cho người đi bộ

Luật Giao thông đường bộ năm 2008 đã quy định cụ thể các trường hợp phải nhường đường cho người đi bộ:

– Tại nơi có vạch kẻ đường dành cho người đi bộ, người điều khiển phương tiện phải quan sát, giảm tốc độ và nhường đường cho người đi bộ, xe lăn của người khuyết tật qua đường (khoản 4 Điều 11);

– Những nơi không có vạch kẻ đường cho người đi bộ, người điều khiển phương tiện phải quan sát, nếu thấy người đi bộ, xe lăn của người khuyết tật đang qua đường thì phải giảm tốc độ, nhường đường cho người đi bộ, xe lăn của người khuyết tật qua đường bảo đảm an toàn (khoản 4 Điều 11);

– Khi chuyển hướng, phải nhường quyền đi trước cho người đi bộ, người đi xe đạp đang đi trên phần đường dành riêng cho họ, nhường đường cho các xe đi ngược chiều và chỉ cho xe chuyển hướng khi quan sát thấy không gây trở ngại hoặc nguy hiểm cho người và phương tiện khác (khoản 2 Điều 15);

– Không được quay đầu xe, lùi xe ở phần đường dành cho người đi bộ qua đường (khoản 4 Điều 15, khoản 2 Điều 16).

Dù đã có quy định song việc đi bộ qua đường ở những nơi không có đèn tín hiệu tại các thành phố lớn không hề đơn giản, phần lớn các lái xe chưa có ý thức nhường đường cho người đi bộ.

Mức phạt dành cho người điều khiển phương tiện không nhường đường cho người đi bộ

Căn cứ Nghị định 100/2019/NĐ-CP, mức phạt dành cho người điều khiển phương tiện không nhường đường cho người đi bộ:

– Đối với xe ô tô và các loại xe tương tự xe ô tô: Mức phạt từ 200.000 đồng đến 400.000 đồng.

– Đối với xe mô tô, xe gắn máy (kể cả xe máy điện), các loại xe tương tự xe mô tô và các loại xe tương tự xe gắn máy: Mức phạt từ 100.000 đồng đến 200.000 đồng.

– Đối với máy kéo, xe máy chuyên dùng: Mức phạt từ 100.000 đồng đến 200.000 đồng.

Có thể bạn quan tâm:

Người dưới 16 tuổi vi phạm giao thông sẽ bị xử phạt thế nào?

Ngày nay, tình trạng học sinh được phụ huynh cho phép điều khiển xe gắn máy để phục vụ cho việc học dù chưa đủ tuổi diễn ra phổ biến. Vậy theo quy định hiện hành, người dưới 16 tuổi vi phạm sẽ bị xử lý thế nào? Hãy cùng xuphat.com tìm hiểu ngay.

Xử phạt hành chính đối với người dưới 16 tuổi khi nào?

Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 5 Luật Xử lý vi phạm hành chính 2012 quy định đối tượng bị xử phạt vi phạm hành chính bao gồm người có độ tuổi từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi nhưng có hành vi vi phạm hành chính do cố ý.

Như vậy, trường hợp được phép xử phạt người dưới 16 tuổi vi phạm hành chính chỉ thực hiện khi họ có hành vi cố ý và hiểu rõ hành vi của mình làm là vi phạm pháp luật nhưng vẫn thực hiện.

Các hình thức xử lý đối với người dưới 16 tuổi

Theo khoản 3 Điều 134 Luật Xử lý vi phạm hành chính 2012 (sửa đổi Luật Xử lý vi phạm hành chính 2020) có quy định trong trường hợp người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi vi phạm hành chính thì không áp dụng hình thức phạt tiền.

Mà thay vào đó sẽ áp dụng Điều 22 Luật Xử lý vi phạm hành chính 2012 như sau: đối với mọi hành vi vi phạm hành chính do người chưa thành niên từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi thực hiện. Cảnh cáo được quyết định bằng văn bản.

Người dưới 16 tuổi vi phạm hành chính sẽ không bị phạt tiền
Người dưới 16 tuổi vi phạm hành chính sẽ không bị phạt tiền

Các biện pháp thay thế xử lý vi phạm hành chính đối với người dưới 16 tuổi

Đối với người dưới 16 tuổi, Nhà nước chú trọng về giáo dục người chưa đủ nhận thức về năng lực hành vi dân sự. Theo đó, cơ quan có thẩm quyền khi xử lý người dưới 16 tuổi thì có thể thay thế xử lý vi phạm hành chính bằng các hình thức quy định tại Điều 138 Luật Xử lý vi phạm hành chính 2012:

(1) Nhắc nhở

Đây là biện pháp thay thế xử lý vi phạm hành chính để chỉ ra những vi phạm do người chưa thành niên thực hiện, được thực hiện đối với người chưa thành niên vi phạm hành chính mà theo quy định của pháp luật phải bị xử phạt vi phạm hành chính khi có đủ các điều kiện sau:

  • Vi phạm hành chính theo quy định bị phạt cảnh cáo;
  • Người chưa thành niên vi phạm đã tự nguyện khai báo, thành thật hối lỗi về hành vi vi phạm của mình.

Nhắc nhở được thực hiện bằng lời nói, ngay tại chỗ.

(2) Quản lý tại gia đình

Quản lý tại gia đình là biện pháp thay thế xử lý vi phạm hành chính áp dụng đối với người chưa thành niên thuộc đối tượng quy định tại khoản 3 Điều 90 của Luật này khi có đủ các điều kiện sau đây:

  • Đã tự nguyện, khai báo, thành thật hối lỗi về hành vi vi phạm của mình;
  • Có môi trường sống thuận lợi cho việc thực hiện biện pháp này;
  • Cha mẹ hoặc người giám hộ có đủ điều kiện thực hiện việc quản lý và tự nguyện nhận trách nhiệm quản lý tại gia đình.

Theo đó khoản 3 Điều 90 Luật vi phạm xử lý hành chính 2021 quy định: “Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi đã 02 lần bị xử phạt vi phạm hành chính và bị lập biên bản vi phạm hành chính tại lần vi phạm thứ ba trong thời hạn 06 tháng về một trong các hành vi gây rối trật tự công cộng, trộm cắp tài sản, đánh bạc, lừa đảo, đua xe trái phép”.

Xem thêm bài viết khác của Xử phạt >> 5 TRƯỜNG HỢP VƯỢT ĐÈN ĐỎ MÀ KHÔNG LO BỊ XỬ PHẠT

Thời hạn áp dụng biện pháp quản lý tại gia đình từ 03 tháng đến 06 tháng.

Người chưa thành niên đang quản lý tại gia đình được đi học hoặc tham gia các chương trình học tập hoặc dạy nghề khác; tham gia các chương trình tham vấn, phát triển kỹ năng sống tại cộng đồng.

Trong thời gian quản lý tại gia đình, nếu người dưới 16 tuổi tiếp tục vi phạm pháp luật thì người có thẩm quyền quyết định chấm dứt việc áp dụng biện pháp này và xử lý theo quy định của pháp luật.

Như vậy, trường hợp người người dưới 16 tuổi vi phạm hành chính thì sẽ không bị phạt tiền nhưng sẽ bị phạt cảnh cáo hoặc gửi về cho gia đình quản lý. Trường hợp vi phạm có gây thiệt hại thì người quản lý hoặc cha mẹ phải có trách nhiệm bồi thường.

Giết người xong tự sát vụ án sẽ được giải quyết ra sao?

Thời gian gần đây đã xảy ra nhiều vụ án giết người dã man mà mới nhất là trọng án tại Bắc Ninh. Sau khi sát hại cô gái bán quần áo, nghi phạm nhảy sông tự sát mà theo nhiều người có thể vì nghi phạm cảm thấy hối hận, thấy tự trách, hay muốn chết cùng nạn nhân.

Hậu quả giết người còn đó thì sau khi nghi phạm chết phải giải quyết thế nào. Nghi phạm giết người chết thì vụ án có còn được tiếp tục điều tra hay không? Nghi phạm chết rồi thì ai phải chịu trách nhiệm bồi thường cho nạn nhân? Mời quí vị cùng xuphat.com tìm hiểu ngay sau đây…

Trách nhiệm hình sự trong trường hợp hung thủ đã chết

Giết người là hành vi cố ý tước đoạt tính mạng của người khác một cách trái pháp luật. Đây là hành vi vi phạm pháp luật đặc biệt nghiêm trọng, xâm phạm đến quyền được tôn trọng và bảo vệ tính mạng của con người.

Người thực hiện hành vi giết người sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về Tội giết người theo quy định của pháp luật.

Tuy nhiên, trong trường hợp nghi phạm duy nhất của vụ án lại tự sát, căn cứ Điều 157 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 (BLTTHS), vụ án sẽ không được khởi tố. Đồng thời, Cơ quan điều tra sẽ ra quyết định đình chỉ điều tra theo quy định tại khoản Điều 230 BLTTHS.

Đối với trường hợp hung thủ gây án đã chết nhưng vụ án xác định còn có đồng phạm bao gồm những người tổ chức, xúi giục, giúp sức thì vụ án vẫn sẽ được điều tra, khởi tố và xử lý theo quy định của pháp luật.

Người có hành vi giết người thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự về Tội giết người Điều 123 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017).

Theo quy định tại khoản 7 Điều 157 Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015, trong trường hợp vụ việc chỉ có một người duy nhất là hung thủ và có kết luận là người này đã chết mà không cần tái thẩm đối với người khác thì Viện kiểm sát không khởi tố vụ án hình sự.

Ngoài ra, nếu có căn cứ xác định trong vụ án còn có những đồng phạm khác hỗ trợ hung thủ thực hiện hành vi phạm tội thì những người này phải chịu trách nhiệm hình sự theo phán quyết của Tòa án.

Nghi phạm giết người phụ nữ ở Bắc Ninh được cho là đã tự sát
Nghi phạm giết người phụ nữ ở Bắc Ninh được cho là đã tự sát

TIN ĐÁNG XEM>>Tài xế ô tô vi phạm nồng độ cồn tông nhiều phụ huynh thương vong ở Bình Dương đối diện mức xử phạt nào?

Trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong trường hợp hung thủ đã chết

Theo khoản 1 Điều 615 Bộ luật Dân sự 2015, những người hưởng thừa kế có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ tài sản trong phạm vi di sản do người chết để lại, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.

Theo điểm a khoản 1 Điều 651 Bộ luật Dân sự 2015, hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết.

Vì hung thủ đã giết người nên người thừa kế của hung thủ có nghĩa vụ bồi thường về tính mạng, tài sản và tinh thần cho những người thuộc hàng thừa kế thứ nhất của nạn nhân.

Bộ luật Dân sự 2015 quy định về mức bồi thường như sau:

Tại Điều 585 Bộ luật Dân sự 2015, thiệt hại do tài sản bị xâm phạm gồm:

  • Tài sản bị mất, bị hủy hoại hoặc bị hư hỏng.
  • Lợi ích gắn liền với việc sử dụng, khai thác tài sản bị mất, bị giảm sút.
  • Chi phí hợp lý để ngăn chặn, hạn chế và khắc phục thiệt hại.
  • Thiệt hại khác do luật quy định.

Tại Điều 591 Bộ luật Dân sự 2015, thiệt hại do tính mạng bị xâm phạm gồm:

  • Thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm căn cứ quy định tại Điều 590 của Bộ luật Dân sự 2015;
  • Chi phí hợp lý cho việc mai táng;
  • Tiền cấp dưỡng cho những người mà người bị thiệt hại có nghĩa vụ cấp dưỡng;
  • Thiệt hại khác do luật quy định.
  • Người chịu trách nhiệm bồi thường trong trường hợp tính mạng của người khác bị xâm phạm phải bồi thường một khoản tiền khác để bù đắp tổn thất về tinh thần cho những người thân thích thuộc hàng thừa kế thứ nhất của người bị thiệt hại.

Nếu không có những người này thì người mà người bị thiệt hại đã trực tiếp nuôi dưỡng, người đã trực tiếp nuôi dưỡng người bị thiệt hại được hưởng khoản tiền này.

Hung thủ sát hại Á khôi áo dài rồi phân xác ném xuống sông Hồng cũng tự sát nhưng bất thành
Hung thủ sát hại Á khôi áo dài rồi phân xác ném xuống sông Hồng cũng tự sát nhưng bất thành

Mức bồi thường bù đắp tổn thất về tinh thần do các bên thỏa thuận; nếu không thỏa thuận được thì mức tối đa cho một người có tính mạng bị xâm phạm không quá một trăm lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định.

Hiện mức lương cơ sở là 1.490.000 đồng. Như vậy mức bù đắp tổn thất về tinh thần cho người nhà nạn nhân tối đa là 149.000.000 đồng.

TIN NÓNG>>Đề nghị xử phạt nghiêm vụ tấn công thầy giáo trọng thương

 

Đi bộ sai phần đường có bị xử phạt không?

Đối với người đi bộ trên cao tốc, dưới lòng đường, sang đường không đúng phần đường dành cho mình, pháp luật có quy định xử phạt như thế nào về những hành vi này?

Những quy định cần biết

Theo quy định tại Điều 32 Luật Giao thông đường bộ (Luật số: 23/2008/QH12, ngày 13/11/2008) về vấn đề người đi bộ tham gia giao thông phải thực hiện để đảm bảo an toàn. Nếu không tuân thủ quy định sẽ bị xử phạt theo pháp luật. Cụ thể:

– Người đi bộ phải đi trên hè phố, lề đường; trường hợp đường không có hè phố, lề đường thì người đi bộ phải đi sát mép đường.

– Người đi bộ chỉ được qua đường ở những nơi có đèn tín hiệu, có vạch kẻ đường hoặc có cầu vượt, hầm dành cho người đi bộ và phải tuân thủ tín hiệu chỉ dẫn.

– Trường hợp không có đèn tín hiệu, không có vạch kẻ đường, cầu vượt, hầm dành cho người đi bộ thì người đi bộ phải quan sát các xe đang đi tới, chỉ qua đường khi bảo đảm an toàn và chịu trách nhiệm bảo đảm an toàn khi qua đường.

– Người đi bộ không được vượt qua dải phân cách, không đu bám vào phương tiện giao thông đang chạy; khi mang vác vật cồng kềnh phải bảo đảm an toàn và không gây trở ngại cho người và phương tiện tham gia giao thông đường bộ.

– Trẻ em dưới 7 tuổi khi đi qua đường đô thị, đường thường xuyên có xe cơ giới qua lại phải có người lớn dắt; mọi người có trách nhiệm giúp đỡ trẻ em dưới 7 tuổi khi đi qua đường.

Bên cạnh đó, việc chấp hành báo hiệu đường bộ có hoặc không có vạch kẻ đường được quy định theo Khoản 4, Điều 11 Luật Giao thông đường bộ 2008 như sau:

– Tại nơi có vạch kẻ đường dành cho người đi bộ, người điều khiển phương tiện phải quan sát, giảm tốc độ và nhường đường cho người đi bộ, xe lăn của người khuyết tật qua đường.

– Những nơi không có vạch kẻ đường cho người đi bộ, người điều khiển phương tiện phải quan sát, nếu thấy người đi bộ, xe lăn của người khuyết tật đang qua đường thì phải giảm tốc độ, nhường đường cho người đi bộ, xe lăn của người khuyết tật qua đường bảo đảm an toàn.

Trường hợp người đi bộ không đi đúng phần đường theo quy định
Trường hợp người đi bộ không đi đúng phần đường theo quy định

Mức phạt

Trường hợp vi phạm các quy tắc nêu trên, căn cứ Điều 9 Nghị định 100/2019/NĐ-CP, ngày 30/12/2019 người đi bộ có thể bị phạt tiền trong các trường hợp sau.

– Phạt tiền từ 60.000 đồng đến 100.000 đồng đối với người đi bộ thực hiện một trong các hành vi vi phạm sau đây:

    • Không đi đúng phần đường quy định; vượt qua dải phân cách; đi qua đường không đúng nơi quy định hoặc không bảo đảm an toàn;
    • Không chấp hành hiệu lệnh hoặc chỉ dẫn của đèn tín hiệu, biển báo hiệu, vạch kẻ đường, trừ hành vi người đi bộ đi vào đường cao tốc;
    • Không chấp hành hiệu lệnh, hướng dẫn của người điều khiển giao thông hoặc người kiểm soát giao thông;
    • Mang, vác vật cồng kềnh gây cản trở giao thông;
    • Đu, bám vào phương tiện giao thông đang chạy.

– Phạt tiền từ 100.000 đồng đến 200.000 đồng đối với người đi bộ đi vào đường cao tốc, trừ người phục vụ việc quản lý, bảo trì đường cao tốc

– Phạt tiền từ 60.000 đồng đến 100.000 đồng đối với người đi bộ vượt rào chắn đường ngang, cầu chung khi chắn đang dịch chuyển hoặc đã đóng; vượt qua đường ngang khi đèn đỏ đã bật sáng; không chấp hành hiệu lệnh, chỉ dẫn của biển báo hiệu, vạch kẻ đường hoặc hướng dẫn của nhân viên gác đường ngang, cầu chung, hầm khi đi qua đường ngang, cầu chung, hầm.

Mặt khác, tại khoản 3 Điều 260 Bộ luật Hình sự 2015 quy định: Nếu người đi bộ vi phạm giao thông như: Băng qua đường, đi dưới lòng đường (là nguyên nhân chính) dẫn đến tai nạn giao thông gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng thì có thể đối diện với việc bị phạt tù từ 7 đến 15 năm.

Do đó, mỗi người dân khi tham gia giao thông dù là đi bộ hay bất kỳ phương tiện nào cũng cần phải có ý thức chấp hành để đảm bảo an toàn cho bản thân và cho mọi người xung quanh. Nếu không tuân thủ đúng điều này mà gây ra tai nạn giao thông thì người đi bộ phải chịu trách nhiệm hành chính, thậm chí là hình sự, có thể đối diện với án phạt tù cao nhất là 15 năm.

Có thể bạn quan tâm:

Nóng: Sát hại cô gái bán hàng quần áo ở Bắc Ninh rồi tự tử

Những ngày qua liên tiếp xảy ra nhiều vụ án giết người dã man mà nạn nhân là các phụ nữ xinh đẹp. Vụ án mới nhất vừa xảy ra tại Bắc Ninh khi nghi phạm đã có vợ con ở Thái Nguyên dùng dao sát hại cô gái tại cửa hàng quần áo rồi nhảy sông tự tử. Sau đây là chi tiết vụ án gây rúng động dư luận…

Hiện trường vụ sát hại cô gái bán hàng quần áo ở Bắc Ninh rồi tự tử
Hiện trường vụ sát hại cô gái bán hàng quần áo ở Bắc Ninh rồi tự tử

Giết người rồi nhảy sông tự sát

Tối 17-10, thông tin từ Công an tỉnh Bắc Ninh cho biết khoảng 15h cùng ngày, lực lượng chức năng tiếp nhận tin báo về vụ một cô gái bị người đàn ông dùng dao đâm nhiều nhát vào vùng đầu, cổ, bụng, ngực dẫn đến tử vong. Sau đó, nghi phạm sát hại cô gái bỏ trốn khỏi hiện trường.

Qua xác định, cơ quan công an cho hay vụ việc xảy ra tại phường Đại Phúc, TP Bắc Ninh. Nạn nhân là chị N.T.P., 27 tuổi, tạm trú TP Bắc Ninh.

Bước đầu, Công an tỉnh Bắc Ninh xác định nghi phạm là Nguyễn Văn Hiệp, 37 tuổi, trú Phổ Yên, Thái Nguyên. Hiệp đã có vợ và hai con ở Thái Nguyên.

Theo Công an tỉnh Bắc Ninh, qua lời khai của các nhân chứng, Hiệp nhiều lần đến gặp chị N.T.P. tại cửa hàng quần áo trên vào các buổi trưa.

Đến khoảng 15h ngày 17-10, Hiệp đến cửa hàng quần áo và xảy ra mâu thuẫn, cãi vã với nạn nhân.

Qua camera ghi tại hiện trường, Hiệp dùng dao nhọn đâm nhiều nhát khiến chị P. tử vong. Sau đó, Hiệp lái xe taxi màu xanh lá cây rời khỏi hiện trường.

Tại hiện trường, công an thu giữ một con dao dính máu.

Cũng theo Công an tỉnh Bắc Ninh, khoảng 16h30 chiều 17-10, lực lượng chức năng phát hiện chiếc taxi có đặc điểm trên đang đỗ trên cầu Thanh Trì, TP Hà Nội. Cơ quan chức năng còn thu giữ trên xe một điện thoại di động, một ví da có giấy tờ tùy thân của nghi phạm Nguyễn Văn Hiệp.

Theo lời kể của người dân, một nam thanh niên lái chiếc xe taxi nói trên đỗ trên cầu Thanh Trì, sau đó nhảy xuống sông Hồng mất tích.

Vụ sát hại cô gái bán hàng quần áo ở Bắc Ninh rồi tự tử
Vụ sát hại cô gái bán hàng quần áo ở Bắc Ninh rồi tự tử

TIN LIÊN QUAN>>Chứng kiến cô gái bị sát hại ở Thủ Đức nhưng bỏ đi có bị xử lý?

Khởi tố kẻ sát hại phân xác á khôi Hồ Yến Nhi

Công an TP Hà Nội đã ra quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can đối với Tạ Duy Khanh, thủ phạm đã sát hại á khôi Hồ Yến Nhi rồi phân xác, phi tang xuống sông Hồng.

Theo đó, Công an TP Hà Nội đã ra quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can đối với Tạ Duy Khanh (38 tuổi, quê Thái Bình) về tội giết người.

Trước đó, vào khoảng 12h30 ngày 13/10, Tổng đài cảnh sát 113, Công an thành phố Hà Nội nhận được tin báo của quần chúng về việc phát hiện một thi thể người bị phân mảnh tại bờ sông Hồng đoạn qua thôn 2 Giang Cao, xã Bát Tràng, huyện Gia Lâm.

Căn cứ kết quả điều tra, công an xác định nạn nhân là Hồ Yến Nhi (17 tuổi, trú quận Ba Đình, Hà Nội).

Đến 23h ngày 14/10, các đơn vị nghiệp vụ thuộc Công an thành phố đã phối hợp Công an tỉnh Thái Bình phát hiện, bắt nghi phạm Tạ Duy Khanh khi nghi phạm đang lẩn trốn tại Thái Bình.

Công an TP Hà Nội đã ra quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can đối với Tạ Duy Khanh
Công an TP Hà Nội đã ra quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can đối với Tạ Duy Khanh

Được biết: nghi phạm Tạ Duy Khanh đã có vợ con và hiện đang sinh sống ở huyện Gia Lâm, Hà Nội. Nơi Khanh lẩn trốn và bị công an bắt là nhà bố mẹ của nghi phạm ở huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình. Khi công an vây bắt Khanh tự sát nhưng bất thành…

TIN NÓNG>>>Đề nghị xử phạt nghiêm phụ huynh tấn công thầy giáo trọng thương

           –Thắc mắc: Giết người xong tự sát vụ án sẽ được giải quyết ra sao?

 

 

 

xe oto phạt nguộiTRA CỨU
PHẠT NGUỘI