Tra cứu mức phạt

Tra cứu mức phạt

Đi xe đạp điện không đội mũ bảo hiểm có bị xử phạt?

Ngày nay, xe đạp điện đang trở thành phương tiện được nhiều người lựa chọn sử dụng, đặc biệt là các em học sinh. Vậy khi điều khiển xe đạp điện có cần phải đội mũ bảo hiểm không? Hãy cùng xuphat.com tìm hiểu ngay.

Khái niệm xe đạp điện

Theo quy định tại điểm e, khoản 1, Điều 3, Nghị định 100/2019/NĐ-CP có nêu: “Xe đạp máy là xe thô sơ hai bánh có lắp động cơ, vận tốc thiết kế lớn nhất không lớn hơn 25 km/h và khi tắt máy thì đạp xe đi được (kể cả xe đạp điện).”

Như vậy, có thể hiểu, xe đạp điện chính là xe đạp máy.

Xe đạp điện trở nên ngày càng phổ biến, được nhiều người lựa chọn sử dụng
Xe đạp điện trở nên ngày càng phổ biến, được nhiều người lựa chọn sử dụng

Đi xe đạp điện có phải đội mũ bảo hiểm không?

Căn cứ khoản 2, Điều 31, Luật Giao thông đường bộ năm 2008 quy định: “Người điều khiển, người ngồi trên xe đạp máy phảo đội mũ bảo hiểm có cài quai đúng cách”.

Như vậy, người sử dụng xe máy điện phải đổi mũ bảo hiểm và cài quai theo quy định. Theo quy định này ta có thể xác định được những đối tượng cụ thể bắt buộc phải đội mũ bảo hiểm khi sử dụng xe máy đạp điện bao gồm: người điều khiển phương tiện xe đạp điện, xe máy điện và người được chở trên xe đạp điện, xe máy điện.

Mức xử phạt khi đi xe đạp điện không đội mũ bảo hiểm

Theo khoản 4, Điều 8, Nghị định 100/2019/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ và đường sắt (được bổ sung bởi Khoản 6 Điều 2 Nghị định 123/2021/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của các Nghị định quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực hàng hải; giao thông đường bộ, đường sắt; hàng không dân dụng) quy định xử phạt người điều khiển xe đạp, xe đạp máy (kể cả xe đạp điện), người điều khiển xe thô sơ khác vi phạm quy tắc giao thông đường bộ như sau:

Khi điều khiển xe đạp điện nhưng không đội mũ bảo hiểm có thể bị phạt lên đến 600.000 đồng
Khi điều khiển xe đạp điện nhưng không đội mũ bảo hiểm có thể bị phạt lên đến 600.000 đồng

“4. Phạt tiền từ 400.000 đồng đến 600.000 đồng đối với người điều khiển xe thực hiện một trong các hành vi vi phạm sau đây:

a) Điều khiển xe đi vào đường cao tốc, trừ phương tiện phục vụ việc quản lý, bảo trì đường cao tốc;

b) Gây tai nạn giao thông không dừng lại, không giữ nguyên hiện trường, bỏ trốn không đến trình báo với cơ quan có thẩm quyền, không tham gia cấp cứu người bị nạn;

c) Điều khiển xe trên đường mà trong máu hoặc hơi thở có nồng độ cồn vượt quá 80 miligam/100 mililít máu hoặc vượt quá 0,4 miligam/1 lít khí thở;

d) Không chấp hành yêu cầu kiểm tra về nồng độ cồn của người thi hành công vụ.

đ) Người điều khiển xe đạp máy (kể cả xe đạp điện) không đội “mũ bảo hiểm cho người đi mô tô, xe máy” hoặc đội “mũ bảo hiểm cho người đi mô tô, xe máy” không cài quai đúng quy cách khi tham gia giao thông trên đường bộ;

e) Chở người ngồi trên xe đạp máy (kể cả xe đạp điện) không đội “mũ bảo hiểm cho người đi mô tô, xe máy” hoặc đội “mũ bảo hiểm cho người đi mô tô, xe máy” không cài quai đúng quy cách, trừ trường hợp chở người bệnh đi cấp cứu, trẻ em dưới 06 tuổi, áp giải người có hành vi vi phạm pháp luật.”

Như vậy, theo quy định trên, người điều khiển xe đạp điện không đội mũ bảo hiểm có thể bị phạt tiền từ 400.000 đến 600.000 đồng.

Xuân Quyên

Mua đất bằng giấy tay được cấp Sổ đỏ mới nhất

Mua đất bằng giấy tay có được cấp Sổ đỏ không là thắc mắc mà nhiều người đang gặp phải bởi số nhà đất mua bằng giấy tay hiện nay là vô cùng lớn. Tuy nhiên, từ nay quí không không còn phải lo lắng nữa. Hãy cùng xuphat.com cùng tìm hiểu những hướng dẫn làm sổ đỏ nhà đất mua bằng giấy tay quí vị nhé…

1. Định nghĩa mua đất bằng giấy viết tay

Mua bán đất bằng giấy viết tay được hiểu là việc chuyển nhượng quyền sử đất thông qua hợp đồng nhưng không thực hiện công chứng, chứng thực hợp đồng mua bán này.

Theo đó, về hiệu lực của giao dịch mua bán đất bằng giấy viết tay được quy định như sau:

– Trường hợp chuyển nhượng đất từ trước ngày 01/7/2014:

Tại khoản 1 Điều 82 Nghị định 43/2014/NĐ-CP được sửa đổi, bổ sung bởi khoản 54 Điều 2 Nghị định 01/2017/NĐ-CP quy định thủ tục đăng ký, cấp Giấy chứng nhận đối với trường hợp đã chuyển quyền sử dụng đất nhưng chưa thực hiện thủ tục chuyển quyền như sau:

“1. Các trường hợp đang sử dụng đất sau đây mà chưa được cấp Giấy chứng nhận và không thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 Điều này thì người đang sử dụng đất thực hiện thủ tục đăng ký đất đai, cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất lần đầu theo quy định của Luật đất đai và quy định tại Nghị định này mà không phải làm thủ tục chuyển quyền sử dụng đất; cơ quan tiếp nhận hồ sơ không được yêu cầu người nhận chuyển quyền sử dụng đất nộp hợp đồng, văn bản chuyển quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật:

  1. a) Sử dụng đất do nhận chuyển nhượng, nhận tặng cho quyền sử dụng đất trước ngày 01 tháng 01 năm 2008;
  2. b) Sử dụng đất do nhận chuyển nhượng, nhận tặng cho quyền sử dụng đất từ ngày 01 tháng 01 năm 2008 đến trước ngày 01 tháng 7 năm 2014 mà có giấy tờ về quyền sử dụng đất quy định tại Điều 100 của Luật đất đai và Điều 18 của Nghị định này”

Theo quy định trên, nếu đang sử dụng đất do nhận chuyển nhượng trước ngày 01/7/2014 thì khi thực hiện thủ tục đăng ký đất đai cơ quan tiếp nhận hồ sơ không được yêu cầu người nhận chuyển nhượng nộp hợp đồng có công chứng hoặc chứng thực.

Nói cách khác, trường hợp chuyển nhượng đất bằng giấy viết tay từ trước ngày 01/7/2014 vẫn được công nhận hiệu lực.

– Trường hợp chuyển nhượng từ ngày 01/7/2014 đến nay

Điểm a khoản 3 Điều 167 Luật Đất đai 2013 quy định hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất giữa hộ gia đình, cá nhân với nhau phải công chứng, chứng thực nếu không sẽ không có hiệu lực, trừ khoản 2 Điều 129 Bộ luật Dân sự 2015.

Do đó, trường hợp mua bán đất bằng giấy viết tay từ ngày 01/7/2014 đến nay sẽ không được công nhận hiệu lực.

TIN HOT>>Dùng giấy tờ giả lừa đảo cụ bà U80 gần 90 tỷ đồng

2. Mua đất bằng giấy tay trước năm 1993 được cấp Sổ đỏ không?

Như đã trình bày ở phần trên, trường hợp đang sử dụng đất mà chưa được cấp Giấy chứng nhận thì người đang sử dụng đất thực hiện thủ tục cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất lần đầu mà không phải làm thủ tục chuyển quyền sử dụng đất.

Đáng chú ý, cơ quan tiếp nhận hồ sơ không được yêu cầu người nhận chuyển quyền sử dụng đất nộp hợp đồng, văn bản chuyển quyền sử dụng đất nếu:

– Sử dụng đất do nhận chuyển nhượng, nhận tặng cho quyền sử dụng đất trước ngày 01/01/2008;

– Sử dụng đất do nhận chuyển nhượng, nhận tặng cho quyền sử dụng đất từ ngày 01/01/2008 đến trước ngày 01/7/2014 mà có giấy tờ về quyền sử dụng đất;

– Sử dụng đất do nhận thừa kế quyền sử dụng đất trước 01/7/2014.

Như vậy, trường hợp các bên mua bán đất bằng giấy viết tay (không có công chứng, chứng thực) từ trước năm 1993 thì được thực hiện thủ tục cấp Sổ đỏ lần đầu.

Mua đất bằng giấy tay sẽ được cấp Sổ đỏ
Mua đất bằng giấy tay sẽ được cấp Sổ đỏ

TPHCM hướng dẫn cấp sổ đỏ nhà đất mua bán giấy tay

Ngày 13.11, Sở TN-MT TP.HCM có văn bản hướng dẫn UBND các quận, huyện, TP.Thủ Đức và Văn phòng Đăng ký đất đai TP.HCM về việc cấp giấy chứng nhận cho các hồ sơ tự ý tách thửa, tự ý chuyển mục đích sử dụng đất, chuyển quyền bằng giấy tay (còn gọi là mua bán giấy tay).

Theo đó, Văn phòng Đăng ký đất đai TP.HCM chỉ đạo các chi nhánh văn phòng đăng ký đất đai căn cứ tình hình thực tế để phối hợp Phòng TN-MT, Phòng Quản lý đô thị và UBND phường, xã, thị trấn xác định điều kiện cấp giấy chứng nhận cho trường hợp mua bán giấy tay. Các đơn vị chủ động lập kế hoạch rà soát, phân loại hồ sơ, thời gian và các bước thực hiện.

Sở TN-MT đề nghị UBND quận, huyện, TP.Thủ Đức căn cứ tình hình địa phương để xây dựng cơ chế phối hợp của các cơ quan, đơn vị trong việc rà soát hồ sơ, xử lý vi phạm, có ý kiến về quy hoạch, hạn mức, điều kiện về hạ tầng khi xem xét cấp sổ đỏ cho các trường hợp mua bán giấy tay.

Đồng thời, chỉ đạo UBND phường, xã, thị trấn có kế hoạch công khai thông tin rộng rãi và tuyên truyền, yêu cầu người dân thực hiện kê khai, đăng ký theo quy định.

Sở TN-MT đề nghị nếu có khó khăn, vướng mắc trong quá trình giải quyết thì báo cáo sở để thống nhất giải quyết hoặc tổng hợp, trình cơ quan có thẩm quyền xin ý kiến đối với nội dung vượt thẩm quyền.

Hướng dẫn của Sở TN-MT đưa ra sau khi Phó chủ tịch UBND TP.HCM Bùi Xuân Cường có ý kiến chỉ đạo đẩy nhanh tiến độ cấp giấy chứng nhận, bao gồm các trường hợp nhà đất mua bán giấy tay.

Lãnh đạo TP.HCM yêu cầu khi xem xét giải quyết cần đảm bảo các điều kiện về cơ sở hạ tầng và quy hoạch, không để xảy ra tình trạng phân lô, tách thửa, xây dựng không đúng quy hoạch.

Xử lý vi phạm mua bán đất bằng giấy tay trước khi cấp sổ đỏ

Theo Sở TN-MT, việc mua bán nhà đất bằng giấy tay là một dạng tồn tại kéo dài qua nhiều thời kỳ, có thể phát sinh tiếp theo do việc mua bán giấy tay không có xác nhận của cơ quan chức năng nên việc kiểm tra tính xác thực của thời điểm mua bán là thiếu căn cứ, dễ bị lợi dụng làm trái quy định. Hơn nữa, nếu làm không chặt chẽ sẽ dẫn đến tình trạng “lách luật” chia tách thửa đất không đảm bảo hạn mức.

Trong văn bản đề xuất UBND TP.HCM hồi tháng 8.2023, Sở TN-MT đề nghị địa phương rà soát, xác minh về người sử dụng đất (bên bán và bên mua), thời điểm, quá trình quản lý sử dụng, hiện trạng, ranh giới sử dụng đất và việc tranh chấp nếu có cũng như rà soát quy hoạch sử dụng đất, quy hoạch chi tiết xây dựng đô thị, hướng dẫn của Tổng cục Quản lý đất đai.

Nếu hộ dân vi phạm về đất đai thì địa phương xử lý vi phạm trước khi cấp giấy chứng nhận. Trường hợp đủ điều kiện thì giao Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai quận, huyện, TP.Thủ Đức ký cấp giấy cho người sử dụng đất.

Đối với hồ sơ đã tiếp nhận trước ngày 18.6.2019, Sở TN-MT đề xuất chấp thuận thời điểm hình thành thửa đất tách ra để chuyển quyền bằng giấy tay (trước ngày 1.7.2014) được xác định cụ thể theo thời điểm ghi tại giấy tờ mua bán giấy tay. Việc áp dụng quy định diện tích tối thiểu khi tách thửa căn cứ vào Quyết định 19/2009 và Quyết định 54/2012 của UBND TP.HCM.

Đối với hồ sơ chưa tiếp nhận, địa phương công khai trên phương tiện thông tin đại chúng để các trường hợp chuyển quyền bằng giấy tay một phần diện tích kê khai chậm nhất đến hết tháng 12.2023, đăng ký biến động và cấp giấy chứng nhận theo quy định. Các hồ sơ phát sinh sau thời điểm kê khai, đăng ký (nếu có) sẽ không có cơ sở xem xét giải quyết.

Sở TN-MT lưu ý việc xác định thửa đất được tách ra khi chuyển quyền trên cơ sở xem xét quá trình sử dụng đất, thông tin thửa đất và người sử dụng đất thông qua bản đồ, sổ mục kê, tài liệu kê khai, đo đạc qua các thời kỳ nhằm đảm bảo quy định về hạn mức tách thửa, các điều kiện về cơ sở hạ tầng của địa phương.

XEM THÊM: 

Tình huống xử phạt học sinh đánh nhau phải ngồi tù

Những ngày qua, liên tiếp các vụ bạo lực học đường xảy ra với tính chất ngày càng nghiêm trọng, khiến học sinh bất an, thầy cô và gia đình các em lo lắng. Chỉ trong vòng 1 tuần qua, ít nhất xảy ra 3 vụ học sinh đánh nhau tại TPHCM, Hà Nội, Nghệ An.

Thực trạng học sinh tại nhiều tỉnh thành trên cả nước liên tiếp xảy ra đánh nhau, tung clip lên mạng khiến dư luận quan tâm, bất bình. Câu hỏi nhiều người đặt ra là những học sinh đánh bạn ngoài kỷ luật của nhà trường thì có phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về hành vi của mình?

Học sinh đánh nhau tại Hà Nội
Học sinh đánh nhau tại Hà Nội

Học sinh mâu thuẫn nhỏ cũng đánh nhau

Tối 12/11, video một nữ sinh bị đánh hội đồng được lan truyền rầm rộ trên các diễn đàn mạng xã hội. Trong video, nạn nhân ngã trên nền gạch, liên tiếp bị nhóm nữ sinh đánh, đá vào đầu… nên chỉ ôm mặt khóc. Sự việc sau đó được xác định xảy ra tại Trường THCS Tân Minh, huyện Thường Tín, Hà Nội.

Theo điều tra ban đầu: vụ việc xảy ra lúc 16 giờ 45 ngày 10/11/2023, 4 học sinh, gồm Tố U. (học sinh đã nghỉ học); Bảo A., Hương L. và Mai U., đều là học sinh Trường THCS Tân Minh đã đến gặp để gây sự với em Thu N, học sinh lớp 6D, sau đó quay clip rồi đăng tải hình ảnh lên mạng xã hội. Đáng lưu ý, trong nhóm nữ sinh này có Mai U. vừa đến trường sau thời gian bị đình chỉ học do có xô xát với bạn học.

Ngay sau khi sự việc xảy ra, nhà trường đã cùng công an địa phương vào cuộc lập biên bản sự việc và kịp thời đưa em N. đến bệnh viện kiểm tra sức khỏe.

Cùng việc thăm nom, động viên em N., Cơ quan công an huyện Thường Tín và Công an xã Tân Minh đang tích cực củng cố hồ sơ để xử lý vụ việc theo quy định.

Chiều 13/11, một lãnh đạo Trường THCS Khánh Sơn (xã Khánh Sơn, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An) xác nhận: hôm 10/11, ở ngay trong trường nhưng ngoài giờ làm việc, một nữ sinh lớp 7 của trường đã bị bạn đánh và lột áo ngay trong trường.

Thời điểm hai em đánh nhau, xung quanh có nhiều học sinh khác chứng kiến nhưng không em nào có động thái can ngăn.

Nguyên nhân dẫn đến sự việc là vì B.T.N (lớp 7D) cho rằng bị nạn nhân là Q (lớp 7B) “nhìn đểu”.

Trước đó cũng xảy ra các vụ nam nữ sinh tại Đắk Lắk và TP Hồ Chí Minh xô xát đánh nhau cũng vì những mâu thuẫn nhỏ nhặt trong cuộc sống, nói xấu nhau trên mạng xã hội hay xuất phát từ sự kích động của bạn bè.

Một vụ học sinh đánh nhau khác
Một vụ học sinh đánh nhau khác

Khi nào học sinh đánh nhau bị xử lý hình sự?

Đa số các vụ học sinh đánh người ở mức độ nhẹ thì sẽ bị xử lý kỷ luật theo quy định của nhà trường. Nhưng nếu hành vi đó có dấu hiệu vi phạm pháp luật thì tùy tính chất, mức độ có thể bị xử phạt hành chính hoặc nghiêm trọng hơn có thể bị xử lý hình sự.

Cụ thể, theo quy định của pháp luật, đối với những hành vi đánh nhau, lôi kéo đánh nhau, tụ tập, gây rối trật tự công cộng có thể bị xử phạt theo Điều 7, Nghị định 144/2021/NĐ-CP hoặc nếu đủ dấu hiệu tội phạm thì có thể bị xử lý theo điều Điều 134, Bộ Luật Hình sự 2015 – Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác”.

Xử phạt hành chính Điều 7. Vi phạm quy định về trật tự công cộng

1. Phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 300.000 đồng đến 500.000 đồng đối với một trong những hành vi sau đây:

a) Gây mất trật tự công cộng ở nơi biểu diễn nghệ thuật, nơi tổ chức các hoạt động văn hóa, thể dục thể thao, thương mại, trụ sở cơ quan, tổ chức, khu dân cư hoặc ở những nơi công cộng khác, trừ trường hợp quy định tại điểm a khoản 2, điểm b khoản 5 Điều này;

2. Phạt tiền từ 1.000.000 đồng đến 2.000.000 đồng đối với một trong những hành vi sau đây:

b) Tổ chức, tham gia tụ tập nhiều người ở nơi công cộng gây mất trật tự công cộng;

3. Phạt tiền từ 2.000.000 đồng đến 3.000.000 đồng đối với một trong những hành vi sau đây:

b) Tổ chức, thuê, xúi giục, lôi kéo, dụ dỗ, kích động người khác cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe người khác hoặc xâm phạm danh dự, nhân phẩm của người khác nhưng không bị truy cứu trách nhiệm hình sự;

4. Phạt tiền từ 3.000.000 đồng đến 5.000.000 đồng đối với một trong những hành vi sau đây:

a) Tổ chức thuê, xúi giục, lôi kéo, dụ dỗ hoặc kích động người khác gây rối, làm mất trật tự công cộng;

b) Mang theo trong người hoặc tàng trữ, cất giấu các loại vũ khí thô sơ, công cụ hỗ trợ hoặc các loại công cụ, phương tiện khác có khả năng sát thương; đồ vật, phương tiện giao thông nhằm mục đích gây rối trật tự công cộng, cố ý gây thương tích cho người khác;

Xử lý hình sự Điều 134. Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác

1. Người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 11% đến 30% hoặc dưới 11% nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:

a) Dùng vũ khí, vật liệu nổ, hung khí nguy hiểm hoặc thủ đoạn có khả năng gây nguy hại cho nhiều người;

b) Dùng a-xít nguy hiểm hoặc hóa chất nguy hiểm;

c) Đối với người dưới 16 tuổi, phụ nữ mà biết là có thai, người già yếu, ốm đau hoặc người khác không có khả năng tự vệ;

d) Đối với ông, bà, cha, mẹ, thầy giáo, cô giáo của mình, người nuôi dưỡng, chữa bệnh cho mình;

đ) Có tổ chức;

e) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn;

g) Trong thời gian đang bị giữ, tạm giữ, tạm giam, đang chấp hành án phạt tù, đang chấp hành biện pháp tư pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng hoặc đang chấp hành biện pháp xử lý vi phạm hành chính đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc, đưa vào trường giáo dưỡng hoặc đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc;

h) Thuê gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác hoặc gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do được thuê;

i) Có tính chất côn đồ;

k) Đối với người đang thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 06 năm:

a) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%;

b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người từ 11% đến 30%;

c) Phạm tội 02 lần trở lên;

d) Tái phạm nguy hiểm;

đ) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 11% đến 30% nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều này.

Như vậy: Học sinh từ đủ 16 tuổi trở lên thì sẽ phải chịu trách nhiệm hình sự nếu như hành vi của các em đã có dấu hiệu tội phạm.

Học sinh từ đủ 14 tuổi trở lên thì phải chịu trách nhiệm hình sự với những hành vi có tính chất đặc biệt nghiêm trọng. Còn học sinh dưới 14 tuổi, nếu hành vi có tính chất đặc biệt nghiêm trọng thì đã có các trung tâm trường giáo dưỡng để phục vụ công tác giáo dục các em một mức độ cao hơn mức độ nhà trường để các em có nhận thức đúng đắn để không tái diễn hành vi vi phạm

Như quí vị thấy, tình trạng bạo lực học đường nhất là tụ tập đánh nhau, đánh người diễn ra ngày càng nhiều đến mức báo động, rất cần được ngăn chặn trước khi để lại nhiều hậu quả xấu.

Để làm được điều đó, rất cần sự vào cuộc của gia đình, nhà trường và cả xã hội nhất là rất cần có những buổi tuyên truyền để học sinh hiểu rằng, hành vi của mình là hành vi vi phạm đạo đức, vi phạm pháp luật, thậm chí có thể ngồi tù nếu gây thương tích cho người khác.

XEM THÊM: 

Bị xử lý thế nào khi đăng hình người khác lên mạng làm giả lệnh truy nã?

Bạn tôi vay tiền nhưng trả muộn so với thời hạn giao hẹn, chủ nợ thấy vậy đã đăng hình bạn tôi lên mạng làm giả lệnh truy nã. Theo quy định thì chủ nợ sẽ bị xử lý thế nào?

Bạn đọc Phạm Hoàng Quỳnh Ny.

Việc chủ nợ làm giả lệnh truy nã, đăng tải hình ảnh cá nhân của người vay tiền lên mạng xã hội nhằm mục đích bôi nhọ, hành vi này đã xâm phạm đến danh dự, nhân phẩm của công dân.
Việc chủ nợ làm giả lệnh truy nã, đăng tải hình ảnh cá nhân của người vay tiền lên mạng xã hội nhằm mục đích bôi nhọ, hành vi này đã xâm phạm đến danh dự, nhân phẩm của công dân.

– Trả lời:

Điều 32 Bộ luật Dân sự 2015 quy định: “Cá nhân có quyền đối với hình ảnh của mình và việc sử dụng hình ảnh của cá nhân phải được người đó đồng ý.

Việc sử dụng hình ảnh mà vi phạm quy định tại điều này thì người có hình ảnh có quyền yêu cầu tòa án ra quyết định buộc người vi phạm, cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan phải thu hồi, tiêu hủy, chấm dứt việc sử dụng hình ảnh, bồi thường thiệt hại và áp dụng các biện pháp xử lý khác theo quy định của pháp luật”.

Hành vi đăng hình người khác lên mạng làm giả lệnh truy nã là vi phạm pháp luật

Mặc dù pháp luật ghi nhận và bảo vệ quyền hình ảnh của cá nhân như trên, nhưng cũng tại khoản 2, điều 32 Bộ luật Dân sự 2015, có hai trường hợp được sử dụng hình ảnh cá nhân của người khác mà không cần sự đồng ý của người đó hoặc người đại diện theo pháp luật, gồm:

– Sử dụng hình ảnh vì lợi ích quốc gia, dân tộc, lợi ích công cộng.

– Sử dụng hình ảnh từ các hoạt động công cộng: hội nghị, hội thảo, thi đấu thể dục thể thao, biểu diễn nghệ thuật… mà không làm tổn hại đến danh dự, nhân phẩm, uy tín của người có hình ảnh.

Việc chủ nợ làm giả lệnh truy nã, đăng tải hình ảnh cá nhân của người vay tiền lên mạng xã hội nhằm mục đích bôi nhọ, gây ảnh hưởng tiêu cực tới uy tín, danh dự cá nhân của người vay, từ đó tạo sức ép để người vay tiền phải trả nợ.

Pháp luật nghiêm cấm tội làm nhục người khác
Pháp luật nghiêm cấm tội làm nhục người khác

Hành vi này đã xâm phạm đến danh dự, nhân phẩm của công dân. Căn cứ vào tính chất, mức độ, hậu quả của hành vi này gây ra, người vi phạm có thể bị xử lý như sau:

  1. Trường hợp hành vi này gây hậu quả không nghiêm trọng, người vi phạm bị xử phạt hành chính theo điểm g khoản 3 điều 102 nghị định 15/2020/NĐ-CP ngày 3-2-2020 quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bưu chính, viễn thông, công nghệ thông tin và tần số vô tuyến điện:

“Phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng đối với một trong các hành vi sau đây: Cung cấp, trao đổi, truyền đưa hoặc lưu trữ, sử dụng thông tin số nhằm đe dọa, quấy rối, xuyên tạc, vu khống, xúc phạm uy tín của tổ chức, danh dự, nhân phẩm, uy tín của người khác”.

  1. Trường hợp hành vi này gây hậu quả nghiêm trọng, người vi phạm có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo điều 155 hoặc điều 156, Bộ luật Hình sự năm 2015, quy định cụ thể như sau:

Điều 155. Tội làm nhục người khác

  1. Người nào xúc phạm nghiêm trọng nhân phẩm, danh dự của người khác, thì bị phạt cảnh cáo, phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 3 năm.
  2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 3 tháng đến 2 năm:

a) Phạm tội 2 lần trở lên.

b) Đối với 2 người trở lên.

c) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn.

d) Đối với người đang thi hành công vụ.

đ) Đối với người dạy dỗ, nuôi dưỡng, chăm sóc, chữa bệnh cho mình.

e) Sử dụng mạng máy tính hoặc mạng viễn thông, phương tiện điện tử để phạm tội.

g) Gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỉ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%.

3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 2 năm đến 5 năm:

a) Gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỉ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên.

b) Làm nạn nhân tự sát.

4. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 1 năm đến 5 năm.

Điều 156. Tội vu khống

1. Người nào thực hiện một trong các hành vi sau đây, thì bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 2 năm hoặc phạt tù từ 3 tháng đến 1 năm:

a) Bịa đặt hoặc loan truyền những điều biết rõ là sai sự thật nhằm xúc phạm nghiêm trọng nhân phẩm, danh dự hoặc gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của người khác.

b) Bịa đặt người khác phạm tội và tố cáo họ trước cơ quan có thẩm quyền.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 1 năm đến 3 năm:

a) Có tổ chức.

b) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn.

c) Đối với 2 người trở lên.

d) Đối với ông, bà, cha, mẹ, người dạy dỗ, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục, chữa bệnh cho mình.

đ) Đối với người đang thi hành công vụ.

e) Sử dụng mạng máy tính hoặc mạng viễn thông, phương tiện điện tử để phạm tội.

g) Gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỉ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%.

h) Vu khống người khác phạm tội rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng.

3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 3 năm đến 7 năm:

a) Vì động cơ đê hèn.

b) Gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỉ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên.

c) Làm nạn nhân tự sát.

4. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 1 năm đến 5 năm.

Như vậy, trong trường hợp này, bạn của bạn có thể làm đơn trình báo đến lực lượng chức năng để được bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp.

XEM THÊM:>>Khi nào thì người bị kết án tử hình được hoãn thi hành án?

Chở hàng cồng kềnh gây tai nạn sẽ phải chịu mức phạt nào?

Theo thông tin mà xuphat.com cập nhật được, hành vi chở hàng cồng kềnh gây tai nạn chết người, hoặc gây tổn thương cơ thể người khác từ 61% trở lên sẽ bị phạt tù.

Vụ tai nạn giao thông ngày 7/11 giữa xe máy với xe xích lô chở hàng cồng kềnh trên đường 3 Tháng 2 (Q.10, TP.HCM) làm một người phụ nữ 61 tuổi tử vong làm dấy lên câu chuyện xử lý xe thô sơ chở hàng cồng kềnh.

Xe xích lô chở hàng cồng kềnh gây tai nạn thương tâm vừa xảy ra hôm 7.11.2023 ở TP.HCM
Xe xích lô chở hàng cồng kềnh gây tai nạn thương tâm vừa xảy ra hôm 7.11.2023 ở TP.HCM

Đây không phải là vụ hy hữu, mà là câu chuyện đau thương thường xảy ra. Chẳng hạn, năm 2022, tại Hà Nội, một xe ba gác chở sắt cồng kềnh đi ngược chiều cũng gây tai nạn với một xe buýt đang lưu thông; hoặc trước đó những năm 2018, 2019, 2020 đều có những vụ tai nạn tương tự xảy ra tại TP.Hà Nội, TP.HCM.

Sau mỗi câu chuyện thương tâm trên, CSGT hoặc cơ quan chức năng sẽ ra quân “dẹp” xe thô sơ, tự chế chở hàng cồng kềnh vi phạm pháp luật. Tuy nhiên, về lâu dài vẫn chưa giải quyết triệt để thực trạng này.

Hiện nay tình trạng xe chở hàng cồng kềnh vẫn chưa giảm
Hiện nay tình trạng xe chở hàng cồng kềnh vẫn chưa giảm

Đại diện Phòng CSGT Công an TP.HCM cho biết trong 10 tháng năm 2023 đã phát hiện 16.491 xe máy chở hàng hóa quá khổ giới hạn (còn gọi là cồng kềnh), 3.356 xe máy thiết bị kỹ thuật không đảm bảo; kiểm tra 2.029 xe ba bánh, trong đó 704 trường hợp chở hàng hóa quá khổ giới hạn.

Cũng theo đại diện Phòng CSGT Công an TP.HCM, căn cứ theo điểm k khoản 3 điều 6 Nghị định 100/2019/NĐ-CP, phạt 400.000 – 600.000 đồng đối với người lái xe hoặc chở người ngồi trên xe bám, kéo, đẩy xe khác, vật khác, dẫn dắt súc vật, mang vác vật cồng kềnh; chở người đứng trên yên, giá đèo hàng hoặc ngồi trên tay lái; xếp hàng hóa trên xe vượt quá giới hạn quy định; điều khiển xe kéo theo xe khác, vật khác.

Chở hàng cồng kềnh gây tai nạn chết người, có thể bị phạt tù 15 năm

Theo thông tin từ Luật sư Hoàng Hùng (Đoàn luật sư TP.HCM) cho biết, trường hợp chở hàng cồng kềnh gây tai nạn chết người hoặc gây thương tích từ 61% trở lên sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự.

Chở hàng cồng kềnh gây tai nạn chết người, có thể bị phạt tù 15 năm
Chở hàng cồng kềnh gây tai nạn chết người, có thể bị phạt tù 15 năm

Cụ thể, theo luật sư Hùng, điều 260 bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) quy định người điều khiển phương tiện gây tai nạn chết người, sẽ bị xem xét truy cứu trách nhiệm hình sự về tội “vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”, mức phạt tiền từ 30 triệu đồng – 100 triệu đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 3 năm hoặc phạt tù từ 1 – 5 năm.

“Khi vụ việc có tình tiết định khung tăng nặng là chết từ 2 người trở lên, hoặc tỷ lệ tổn thương cơ thể cho 2 người trở lên – từ 122% thì khung hình phạt cao nhất là phạt tù từ 7 – 15 năm”, luật sư Hùng nhấn mạnh.

Ngoài ra, luật sư Hùng cho rằng, hiện nay hành vi chở hàng cồng kềnh chưa đến mức xử lý hình sự, chỉ bị xử phạt hành chính, không có hình phạt bổ sung là tước giấy phép lái xe, hoặc tịch thu phương tiện nếu tái phạm, nên không đủ sức răn đe. Vì vậy, luật sư Hùng kiến nghị cần sửa đổi quy định về việc khi vi phạm hành chính, ngoài phạt tiền người vi phạm sẽ còn bị áp dụng hình thức xử phạt bổ sung.

xe oto phạt nguộiTRA CỨU
PHẠT NGUỘI