Ví dụ: 29A12345

Huu Nghia

Quốc hội chính thức thông qua Luật Nhà ở (sửa đổi)

Sáng ngày 27/11, Quốc hội chính thức thông qua Luật Nhà ở (sửa đổi). Luật Nhà ở sửa đổi (sửa đổi) không quy định thời hạn sở hữu mà chỉ quy định thời hạn sử dụng nhà chung cư trên cơ sở kế thừa Luật Nhà ở hiện hành.

Tổng Liên đoàn lao động được làm nhà ở xã hội

Với 423 đại biểu tán thành, 34 vị không tán thành và 11 vị không biểu quyết, sáng nay (27/11), Quốc hội đã thông qua Luật Nhà ở (sửa đổi), có hiêu lực thi hành từ ngày 1/1/2025.

Sáng 27/11, Quốc hội chính thức thông qua Luật Nhà ở (sửa đổi).
Sáng 27/11, Quốc hội chính thức thông qua Luật Nhà ở (sửa đổi).

Trước khi biểu quyết toàn bộ, Quốc hội biểu quyết riêng hai điều 45 và điều 80.

Theo đó, điều 80 có quy định Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam là cơ quan chủ quản dự án đầu tư xây dựng nhà ở xã hội bằng nguồn tài chính công đoàn cho công nhân, người lao động thuộc đối tượng được hưởng chính sách nhà ở xã hội thuê.

Điều 45 đã mở rộng thêm đối tượng được thuê nhà ở công vụ, cụ thể là đã bổ sung “công chức, công nhân và viên chức quốc phòng, người làm công tác cơ yếu và công tác khác trong tổ chức cơ yếu hưởng lương từ ngân sách nhà nước thuộc lực lượng vũ trang nhân dân được điều động, luân chuyển, biệt phái đến công tác tại xã vùng sâu, vùng xa, vùng có điều kiện kinh tế – xã hội đặc biệt khó khăn, khu vực biên giới, hải đảo”.

Kết quả biểu quyết riêng có 60 đại biểu không tán thành điều 80 và 22 đại biểu không tán thành điều 45, còn 341 đại biểu tán thành.

Trình bày báo cáo giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Luật trước khi Quốc hội biểu quyết, Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật Hoàng Thanh Tùng cho biết, với quy định Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam là cơ quan chủ quản dự án đầu tư xây dựng nhà ở xã hội, dự thảo Luật quy định nguồn vốn thực hiện dự án đầu tư xây dựng nhà ở xã hội là nguồn tài chính công đoàn.

Giới hạn phạm vi thực hiện (tập trung đầu tư xây dựng nhà ở xã hội cho công nhân, người lao động thuê, không đầu tư xây dựng nhà lưu trú công nhân) để nâng cao tính khả thi.

Ông Tùng cũng cho biết, trên cơ sở tiếp thu ý kiến của nhiều đại biểu, dự thảo đã thu hẹp phạm vi khu vực mà chủ đầu tư dự án đầu tư xây dựng nhà ở phải xây dựng nhà ở để bán, cho thuê mua, cho thuê, tăng cường phân cấp cho UBND cấp tỉnh quyết định về vấn đề này.

Cụ thể là tại các khu vực phường, quận, thành phố thuộc đô thị loại đặc biệt, loại I, loại II và loại III, chủ đầu tư dự án đầu tư xây dựng nhà ở phải xây dựng nhà ở để bán, cho thuê mua, cho thuê. Đối với các khu vực còn lại, UBND cấp tỉnh căn cứ điều kiện của địa phương để xác định các khu vực chủ đầu tư dự án đầu tư xây dựng nhà ở phải xây dựng nhà ở để bán, cho thuê mua, cho thuê hoặc được chuyển nhượng quyền sử dụng đất theo hình thức phân lô bán nền để người dân tự xây dựng nhà ở.

Trường hợp chủ đầu tư dự án đầu tư xây dựng nhà ở được chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho người dân tự xây dựng nhà ở thì thực hiện theo quy định của pháp luật về kinh doanh bất động sản và pháp luật về đất đai.

Trường hợp đấu giá quyền sử dụng đất để đầu tư dự án đầu tư xây dựng nhà ở theo quy định của Luật Đất đai thì chủ đầu tư dự án đầu tư xây dựng nhà ở phải xây dựng nhà ở để bán, cho thuê mua, cho thuê.

XEM THÊM>>Luật nhà ở mới nhất năm 2023

Bổ sung quy định điều chỉnh với các loại hình nhà ở nhiều tầng nhiều căn hộ

Về phát triển nhà ở nhiều tầng nhiều căn hộ của cá nhân để bán, cho thuê mua, cho thuê (Điều 57) có ý kiến cho rằng quy định tại Điều 57 là quá chặt chẽ, chưa phù hợp và khó khả thi. Đề nghị chỉnh lý theo hướng Nhà nước tập trung quản lý, kiểm soát theo quy hoạch, quy chế quản lý kiến trúc đô thị, cấp giấy phép xây dựng, bảo đảm vệ sinh môi trường, an toàn, phòng, chống cháy nổ, đơn giản hóa điều kiện, thủ tục hành chính hoặc trong Luật chỉ quy định nguyên tắc và giao cho Chính phủ quy định chi tiết.

Ông Tùng giải thích, quá trình tổ chức thực thi pháp luật và thực tiễn phát triển loại hình nhà ở này thời gian qua ở nhiều địa phương có tình trạng buông lỏng quản lý, thiếu kiểm tra chặt chẽ, không xử lý kịp thời các sai phạm dẫn đến nhiều hệ lụy, gây quá tải về hệ thống hạ tầng đô thị, các tiện ích phục vụ sinh hoạt và tiềm ẩn nguy cơ cháy, nổ, thực tế đã xảy ra một số vụ hỏa hoạn gây thiệt hại nghiêm trọng về người và tài sản.

Để khắc phục các tồn tại, hạn chế trong phát triển, quản lý, sử dụng loại hình nhà ở này thời gian qua, đồng thời bảo đảm hài hòa giữa yêu cầu quản lý và nhu cầu phát triển, đáp ứng nguồn cung nhà ở cho người có thu nhập thấp, Ủy ban Thường vụ Quốc hội xin tiếp thu ý kiến đại biểu và chỉnh lý Điều 57 theo hướng quy định phù hợp hơn một số yêu cầu.

Như, không quy định các yêu cầu riêng mà dẫn chiếu điều kiện quản lý loại hình nhà ở này đến các yêu cầu về nhà ở nhiều tầng nhiều căn hộ của cá nhân do Bộ trưởng Bộ Xây dựng ban hành, yêu cầu của pháp luật về phòng cháy, chữa cháy.

Phân cấp cho UBND cấp tỉnh quy định về đường giao thông để phương tiện chữa cháy thực hiện nhiệm vụ chữa cháy tại nơi có nhà ở nhiều tầng nhiều căn hộ của cá nhân; bổ sung quy định điều chỉnh với các loại hình nhà ở nhiều tầng nhiều căn hộ mà có mục đích hỗn hợp cả bán, cho thuê mua, cho thuê để đáp ứng yêu cầu thực tiễn.

Dự thảo Luật cũng không quy định thời hạn sở hữu mà chỉ quy định thời hạn sử dụng nhà chung cư trên cơ sở kế thừa Luật Nhà ở hiện hành. Khi nhà chung cư hết thời hạn sử dụng, có nguy cơ sập đổ phải phá dỡ thì giá trị nhà ở không còn nhưng giá trị quyền sử dụng đất ở ổn định lâu dài theo quy định của Luật Đất đai vẫn còn và người dân vẫn được bồi thường theo nguyên tắc và nội dung tại dự thảo Luật, do đó vẫn bảo đảm tính thống nhất với Luật Đất đai.

TIN LIÊN QUAN

Luật nhà ở mới nhất năm 2023

Luật Nhà ở có hiệu lực từ ngày 01 tháng 7 năm 2015. Đây là Luật điều chỉnh trực tiếp về Nhà ở hiện nay và thay thế cho Luật Nhà ở năm 2005.

Luật nhà ở số 65/2014/QH13 quy định về sở hữu, phát triển, quản lý, sử dụng nhà ở; giao dịch về nhà ở; quản lý nhà nước về nhà ở tại Việt Nam.

Luật này quy định về sở hữu, phát triển, quản lý, sử dụng nhà ở; giao dịch về nhà ở; quản lý nhà nước về nhà ở tại Việt Nam. Đối với giao dịch mua bán, cho thuê, cho thuê mua nhà ở thương mại của các doanh nghiệp, hợp tác xã kinh doanh bất động sản thì thực hiện theo quy định của pháp luật về kinh doanh bất động sản.

Điều 2. Đối tượng áp dụng Luật nhà ở

Luật này áp dụng đối với tổ chức, hộ gia đình, cá nhân có liên quan đến sở hữu, phát triển, quản lý, sử dụng, giao dịch về nhà ở và quản lý nhà nước về nhà ở tại Việt Nam.

Điều 3. Giải thích từ ngữ Luật nhà ở

Trong Luật này, các từ ngữ dưới đây được hiểu như sau:

1. Nhà ở là công trình xây dựng với mục đích để ở và phục vụ các nhu cầu sinh hoạt của hộ gia đình, cá nhân.

2. Nhà ở riêng lẻ là nhà ở được xây dựng trên thửa đất ở riêng biệt thuộc quyền sử dụng hợp pháp của tổ chức, hộ gia đình, cá nhân, bao gồm nhà biệt thự, nhà ở liền kề và nhà ở độc lập.

3. Nhà chung cư là nhà có từ 2 tầng trở lên, có nhiều căn hộ, có lối đi, cầu thang chung, có phần sở hữu riêng, phần sở hữu chung và hệ thống công trình hạ tầng sử dụng chung cho các hộ gia đình, cá nhân, tổ chức, bao gồm nhà chung cư được xây dựng với mục đích để ở và nhà chung cư được xây dựng có mục đích sử dụng hỗn hợp để ở và kinh doanh.

4. Nhà ở thương mại là nhà ở được đầu tư xây dựng để bán, cho thuê, cho thuê mua theo cơ chế thị trường.

5. Nhà ở công vụ là nhà ở được dùng để cho các đối tượng thuộc diện được ở nhà công vụ theo quy định của Luật này thuê trong thời gian đảm nhận chức vụ, công tác.

6. Nhà ở để phục vụ tái định cư là nhà ở để bố trí cho các hộ gia đình, cá nhân thuộc diện được tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất ở, bị giải tỏa nhà ở theo quy định của pháp luật.

7. Nhà ở xã hội là nhà ở có sự hỗ trợ của Nhà nước cho các đối tượng được hưởng chính sách hỗ trợ về nhà ở theo quy định của Luật này.

8. Dự án đầu tư xây dựng nhà ở là tổng hợp các đề xuất có liên quan đến việc sử dụng vốn để xây dựng mới nhà ở, các công trình hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội phục vụ nhu cầu ở hoặc để cải tạo, sửa chữa nhà ở trên một địa điểm nhất định.

9. Phát triển nhà ở là việc đầu tư xây dựng mới, xây dựng lại hoặc cải tạo làm tăng diện tích nhà ở.

10. Cải tạo nhà ở là việc nâng cấp chất lượng, mở rộng diện tích hoặc điều chỉnh cơ cấu diện tích của nhà ở hiện có.

11. Bảo trì nhà ở là việc duy tu, bảo dưỡng nhà ở theo định kỳ và sửa chữa khi có hư hỏng nhằm duy trì chất lượng nhà ở.

12. Chủ sở hữu nhà ở là tổ chức, hộ gia đình, cá nhân có nhà ở hợp pháp thông qua các hình thức đầu tư xây dựng, mua, thuê mua, nhận tặng cho, nhận thừa kế, nhận góp vốn, nhận đổi nhà ở và các hình thức khác theo quy định của Luật này và pháp luật có liên quan.

13. Chủ sở hữu nhà chung cư là chủ sở hữu căn hộ chung cư, chủ sở hữu diện tích khác trong nhà chung cư.

14. Tổ chức trong nước bao gồm cơ quan nhà nước, đơn vị vũ trang nhân dân, đơn vị sự nghiệp công lập, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị – xã hội, tổ chức chính trị xã hội – nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội – nghề nghiệp, tổ chức kinh tế và tổ chức khác theo quy định của pháp luật về dân sự (sau đây gọi chung là tổ chức).

15. Phần sở hữu riêng trong nhà chung cư là phần diện tích bên trong căn hộ hoặc bên trong phần diện tích khác trong nhà chung cư được công nhận là sở hữu riêng của chủ sở hữu nhà chung cư và các thiết bị sử dụng riêng trong căn hộ hoặc trong phần diện tích khác của chủ sở hữu nhà chung cư theo quy định của Luật này.

16. Phần sở hữu chung của nhà chung cư là phần diện tích còn lại của nhà chung cư ngoài phần diện tích thuộc sở hữu riêng của chủ sở hữu nhà chung cư và các thiết bị sử dụng chung cho nhà chung cư đó theo quy định của Luật này.

17. Thuê mua nhà ở là việc người thuê mua thanh toán trước cho bên cho thuê mua 20% giá trị của nhà ở thuê mua, trừ trường hợp người thuê mua có điều kiện thanh toán trước thì được thanh toán không quá 50% giá trị nhà ở thuê mua; số tiền còn lại được tính thành tiền thuê nhà để trả hàng tháng cho bên cho thuê mua trong một thời hạn nhất định; sau khi hết hạn thuê mua nhà ở và khi đã trả hết số tiền còn lại thì người thuê mua có quyền sở hữu đối với nhà ở đó.

18. Nhà ở có sẵn là nhà ở đã hoàn thành việc đầu tư xây dựng và đưa vào sử dụng.

19. Nhà ở hình thành trong tương lai là nhà ở đang trong quá trình đầu tư xây dựng và chưa được nghiệm thu đưa vào sử dụng.

Luật Nhà ở có hiệu lực từ ngày 01 tháng 7 năm 2015
Luật Nhà ở có hiệu lực từ ngày 01 tháng 7 năm 2015

XEM THÊM>>Mua đất bằng giấy tay được cấp Sổ đỏ mới nhất

Điều 4. Quyền có chỗ ở và quyền sở hữu nhà ở 

Hộ gia đình, cá nhân có quyền có chỗ ở thông qua việc đầu tư xây dựng, mua, thuê, thuê mua, nhận tặng cho, nhận thừa kế, nhận góp vốn, nhận đổi, mượn, ở nhờ, quản lý nhà ở theo ủy quyền và các hình thức khác theo quy định của pháp luật. Tổ chức, hộ gia đình, cá nhân có nhà ở hợp pháp thông qua các hình thức quy định tại khoản 2 Điều 8 của Luật này có quyền sở hữu đối với nhà ở đó theo quy định của Luật này.

Điều 5. Bảo hộ quyền sở hữu nhà ở

1. Nhà nước công nhận và bảo hộ quyền sở hữu hợp pháp về nhà ở của các chủ sở hữu theo quy định của Luật này.

2. Nhà ở thuộc sở hữu hợp pháp của tổ chức, hộ gia đình, cá nhân không bị quốc hữu hóa. Trường hợp thật cần thiết vì mục đích quốc phòng, an ninh; phát triển kinh tế – xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng hoặc trong tình trạng chiến tranh, tình trạng khẩn cấp, phòng, chống thiên tai, Nhà nước quyết định trưng mua, trưng dụng, mua trước nhà ở hoặc giải tỏa nhà ở thuộc sở hữu hợp pháp của tổ chức, hộ gia đình, cá nhân thì Nhà nước có trách nhiệm bồi thường, hỗ trợ và thực hiện chính sách tái định cư cho chủ sở hữu nhà ở theo quy định của pháp luật.

TIN LIÊN QUAN>>Hướng dẫn nộp giấy tờ, chi phí xin cấp sổ đỏ lần đầu

Điều 6. Các hành vi bị nghiêm cấm

1. Xâm phạm quyền sở hữu nhà ở của Nhà nước, tổ chức, hộ gia đình, cá nhân.

2. Cản trở việc thực hiện trách nhiệm quản lý nhà nước về nhà ở, việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ về sở hữu, sử dụng và giao dịch về nhà ở của tổ chức, hộ gia đình, cá nhân.

3. Quyết định chủ trương đầu tư dự án hoặc phê duyệt dự án đầu tư xây dựng nhà ở không theo quy hoạch xây dựng, chương trình, kế hoạch phát triển nhà ở đã được phê duyệt.

4. Xây dựng nhà ở trên đất không phải là đất ở; xây dựng không đúng tiêu chuẩn thiết kế, tiêu chuẩn diện tích đối với từng loại nhà ở mà Nhà nước có quy định về tiêu chuẩn thiết kế, tiêu chuẩn diện tích nhà ở. Áp dụng cách tính sai diện tích sử dụng nhà ở đã được luật quy định trong hợp đồng mua bán, hợp đồng thuê mua nhà ở.

5. Chiếm dụng diện tích nhà ở trái pháp luật; lấn chiếm không gian và các phần thuộc sở hữu chung hoặc của các chủ sở hữu khác dưới mọi hình thức; tự ý thay đổi kết cấu chịu lực hoặc thay đổi thiết kế phần sở hữu riêng trong nhà chung cư.

6. Sử dụng phần diện tích và các trang thiết bị thuộc quyền sở hữu, sử dụng chung vào sử dụng riêng; sử dụng sai mục đích phần diện tích thuộc sở hữu chung hoặc phần diện tích làm dịch vụ trong nhà chung cư hỗn hợp so với quyết định chủ trương đầu tư dự án xây dựng nhà ở và nội dung dự án đã được phê duyệt, trừ trường hợp được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép chuyển đổi mục đích sử dụng.

7. Sử dụng sai mục đích nguồn vốn huy động hoặc tiền mua nhà ở trả trước cho phát triển nhà ở.

8. Chủ đầu tư dự án xây dựng nhà ở ủy quyền hoặc giao cho bên tham gia hợp tác đầu tư, liên doanh, liên kết, hợp tác kinh doanh, góp vốn hoặc tổ chức, cá nhân khác thực hiện ký hợp đồng cho thuê, thuê mua, mua bán nhà ở, hợp đồng đặt cọc các giao dịch về nhà ở hoặc kinh doanh quyền sử dụng đất trong dự án.

9. Thực hiện các giao dịch mua bán, chuyển nhượng hợp đồng mua bán, cho thuê, cho thuê mua, tặng cho, đổi, thừa kế, thế chấp, góp vốn, cho mượn, cho ở nhờ, ủy quyền quản lý nhà ở không đúng quy định của Luật này.

10. Cải tạo, cơi nới, phá dỡ nhà ở đang thuê, thuê mua, mượn, ở nhờ, được ủy quyền quản lý mà không được chủ sở hữu đồng ý.

11. Sử dụng căn hộ chung cư vào mục đích không phải để ở; sử dụng phần diện tích được kinh doanh trong nhà chung cư theo dự án được phê duyệt vào mục đích kinh doanh vật liệu gây cháy, nổ, kinh doanh dịch vụ gây ô nhiễm môi trường, tiếng ồn hoặc các hoạt động khác làm ảnh hưởng đến cuộc sống của các hộ gia đình, cá nhân trong nhà chung cư theo quy định của Chính phủ.

12. Sử dụng nhà ở riêng lẻ vào mục đích kinh doanh vật liệu gây cháy, nổ, kinh doanh dịch vụ gây ô nhiễm môi trường, tiếng ồn, ảnh hưởng đến trật tự an toàn xã hội, sinh hoạt của khu dân cư mà không tuân thủ các quy định của luật về điều kiện kinh doanh.

13. Báo cáo, cung cấp thông tin về nhà ở không chính xác, không trung thực, không đúng quy định hoặc không đúng yêu cầu của cơ quan nhà nước có thẩm quyền; phá hoại, làm sai lệch thông tin trong cơ sở dữ liệu về nhà ở do cơ quan nhà nước có thẩm quyền quản lý.

XEM THÊM>>Quy định cấp sổ đỏ mới nhất 2023

 

Những điều kiện để được công nhận liệt sĩ

Liên quan đến vụ cướp chi nhánh một ngân hàng trên địa bàn quận Ngũ Hành Sơn –TP Đà Nẵng khiến người bảo vệ dũng cảm là ông Trần Văn Thành (50 tuổi, ngụ quận Thanh Khê), nhân viên thuộc Công ty Dịch vụ Bảo vệ An ninh (trụ sở ở TP Đà Nẵng) tử vong, đau đớn trước sự mất mát quá lớn này, người thân quen và gia đình nạn nhân mong muốn cơ quan chức năng công nhận liệt sĩ đối với ông Thành.

Người thân quen và gia đình nạn nhân mong muốn cơ quan chức năng công nhận liệt sĩ đối với ông Thành.
Người thân quen và gia đình nạn nhân mong muốn cơ quan chức năng công nhận liệt sĩ đối với ông Thành.

Hành động dũng cảm quên mình

Cụ thể, khoảng 14 giờ ngày 22-11, Trần Văn Trí (22 tuổi, trú xã Hòa Sơn, huyện Hòa Vang, Đà Nẵng) và Nguyễn Mạnh Cường (25 tuổi, trú xã Quế Mỹ, huyện Quế Sơn, Quảng Nam) đã vào chi nhánh một ngân hàng trên địa bàn quận Ngũ Hành Sơn (TP Đà Nẵng) để cướp.

Trước thái độ hung bạo của Trí và Cường, ông Thành kiên quyết ngăn chặn, chống trả quyết liệt, đuổi theo kẻ cướp ngân hàng và bị người này dùng dao đâm vào lưng khiến ông tử vong.

Theo một số luật sư: điều kiện và tiêu chuẩn để công dân được công nhận liệt sĩ hiện nay được áp dụng theo quy định tại Pháp lệnh Ưu đãi người có công với cách mạng năm 2020 và Nghị định 131/2021.

Hành động của ông Thành trong trường hợp này là rất dũng cảm để ngăn chặn và bắt giữ các đối tượng cướp tài sản của ngân hàng, nơi ông làm nhiệm vụ bảo vệ. Đối chiếu với các quy định hiện hành của pháp luật, trường hợp ông Thành có đủ tiêu chuẩn để được xem xét, tôn vinh, công nhận liệt sĩ…

Khẩu súng của băng cướp ngân hàng khiến ông Thành tử vong
Khẩu súng của băng cướp ngân hàng khiến ông Thành tử vong
  1. Liệt sĩ là ai?

Theo khoản 1 Điều 14 Pháp lệnh ưu đãi người có công với cách mạng 2020, liệt sĩ là người đã hy sinh vì sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc, xây dựng, bảo vệ Tổ quốc, làm nghĩa vụ quốc tế hoặc vì lợi ích của Nhà nước, của Nhân dân thì được cơ quan có thẩm quyền xem xét công nhận là liệt sĩ khi thuộc các trường hợp theo luật định.

  1. Điều kiện nào để được công nhận liệt sĩ?

Người đã hy sinh vì sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc, xây dựng, bảo vệ Tổ quốc, làm nghĩa vụ quốc tế hoặc vì lợi ích của Nhà nước, của Nhân dân thì được cơ quan có thẩm quyền xem xét công nhận là liệt sĩ khi thuộc một trong các trường hợp sau đây:

(i) Chiến đấu hoặc trực tiếp phục vụ chiến đấu để bảo vệ độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, an ninh quốc gia;

(ii) Làm nhiệm vụ quốc phòng, an ninh trong địa bàn địch chiếm đóng, địa bàn có chiến sự, địa bàn tiếp giáp vùng địch chiếm đóng;

(iii) Trực tiếp đấu tranh chính trị, đấu tranh binh vận có tổ chức với địch;

(iv) Hoạt động hoặc tham gia hoạt động cách mạng, kháng chiến bị địch bắt, tra tấn vẫn không chịu khuất phục, kiên quyết đấu tranh hoặc thực hiện chủ trương vượt tù, vượt ngục mà hy sinh;

(v) Làm nghĩa vụ quốc tế;

(vi) Dũng cảm thực hiện công việc cấp bách, nguy hiểm phục vụ quốc phòng, an ninh;

(vii) Trực tiếp làm nhiệm vụ huấn luyện chiến đấu, diễn tập hoặc làm nhiệm vụ quốc phòng, an ninh có tính chất nguy hiểm;

(viii) Do ốm đau, tai nạn không thể cứu chữa kịp thời khi đang trực tiếp làm nhiệm vụ quốc phòng, an ninh ở địa bàn biên giới, trên biển, hải đảo có điều kiện đặc biệt khó khăn theo danh mục do Chính phủ quy định;

(ix) Trực tiếp làm nhiệm vụ đấu tranh chống tội phạm;

(x) Đặc biệt dũng cảm cứu người, cứu tài sản của Nhà nước, của Nhân dân hoặc ngăn chặn, bắt giữ người có hành vi phạm tội, là tấm gương có ý nghĩa tôn vinh, giáo dục, lan tỏa rộng rãi trong xã hội;

(xi) Do vết thương tái phát là nguyên nhân chính dẫn đến tử vong đối với thương binh, người hưởng chính sách như thương binh quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 23 Pháp lệnh ưu đãi người có công với cách mạng 2020 có tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 61% trở lên, có bệnh án điều trị vết thương tái phát của bệnh viện tuyến huyện trở lên và biên bản kiểm thảo tử vong;

(xii) Mất tích trong trường hợp quy định tại (i), (ii), (iii), (iv), (v), (vi), (vii), (ix) và (x) và được cơ quan có thẩm quyền kết luận không phản bội; đầu hàng, chiêu hồi, đào ngũ.

(Khoản 1 Điều 14 Pháp lệnh ưu đãi người có công với cách mạng 2020)

Liệt sĩ là người đã hy sinh vì sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc, xây dựng, bảo vệ Tổ quốc, vì lợi ích của Nhà nước, của Nhân dân
Liệt sĩ là người đã hy sinh vì sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc, xây dựng, bảo vệ Tổ quốc, vì lợi ích của Nhà nước, của Nhân dân
  1. Thẩm quyền cấp giấy chứng nhận hy sinh cho liệt sĩ

Cụ thể tại Điều 16 Nghị định 131/2021/NĐ-CP, cơ quan, tổ chức, đơn vị quản lý cá nhân tại thời điểm hy sinh có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận hy sinh như sau:

(1) Người hy sinh là sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, hạ sĩ quan, binh sĩ, công chức quốc phòng, công nhân và viên chức quốc phòng do thủ trưởng trung đoàn hoặc cấp tương đương trở lên cấp giấy chứng nhận; người hy sinh là người làm công tác cơ yếu, người làm công tác khác trong tổ chức cơ yếu và học viên cơ yếu thuộc Ban Cơ yếu Chính phủ do thủ trưởng đơn vị trực thuộc Ban trở lên cấp giấy chứng nhận.

(2) Người hy sinh là sĩ quan, hạ sĩ quan, chiến sĩ, công nhân, lao động hợp đồng không xác định thời hạn hưởng lương từ ngân sách thuộc công an do thủ trưởng đơn vị trực thuộc Bộ hoặc Giám đốc Công an cấp tỉnh cấp giấy chứng nhận.

(3) Người hy sinh thuộc cơ quan trung ương do Bộ trưởng hoặc cấp tương đương cấp giấy chứng nhận.

(4) Người hy sinh thuộc cơ quan cấp tỉnh quản lý do Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh cấp giấy chứng nhận.

(5) Người hy sinh thuộc cơ quan cấp huyện, cấp xã và các trường hợp không thuộc quy định tại (1), (2), (3) và (4) do Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện cấp giấy chứng nhận.

XEM THÊM>>Cách tra cứu phạt nguội ở TP.HCM nhanh nhất

 

Tiếp tục tạm giữ hai tài xế xe Lexus và Vinfast cố tình tông nhau

Liên quan vụ hai tài xế nam nữ xe ô tô hiệu Lexus và Vinfast tông nhau qua lại giữa giao lộ Nguyễn Văn Linh – Nguyễn Hữu Thọ đêm 20/11 thu hút sự chú ý của dư luận, Công an TP Bà Rịa (tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu) cho biết vừa gia hạn tạm giữ cả hai. Trước đó, cả 2 bị bắt khẩn cấp sau khi xảy ra vụ việc…

Tạm giữ hai tài xế xe Lexus và Vinfast về hành vi cố ý làm hư hỏng tài sản

Ngày 24/11, Công an TP Bà Rịa, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu có quyết định gia hạn thời gian tạm giữ đối với hai tài xế điều khiển ô tô hiệu Lexus và Vinfast tông nhau tại ngã tư.

Hai tài xế này bị công an bắt giữ trong trường hợp khẩn cấp vào ngày 21/11 để làm rõ hành vi cố ý làm hư hỏng tài sản.

Công an gia hạn thời gian tạm giữ với hai tài xế tông xe nhau giữa ngã tư.
Công an gia hạn thời gian tạm giữ với hai tài xế tông xe nhau giữa ngã tư.

Trước đó, đêm 20/11, Công an Bà Rịa nhận được tin báo về việc tài xế xe ô tô hiệu Lexus cố tình đâm vào xe hiệu Vinfast nên vào cuộc xác minh.

Công an xác định ô tô biển số 60A 86.048 hiệu Vinfast do bà P.H.B.T (31 tuổi, ngụ huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai) điều khiển và ô tô biển số 72A 34.335 hiệu Lexus do ông N.Đ.K (41 tuổi, ngụ Bà Rịa) điều khiển.

Hai tài xế xe Lexus và Vinfast khai gì?

Tại cơ quan công an, hai người này khai nhận có mối quan hệ quen biết nhau từ trước nên hẹn nhau tại một quán trà sữa trên địa bàn tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.

Tại quán trà sữa, hai bên xảy ra mâu thuẫn, cãi nhau rồi cùng điều khiển xe rời khỏi quán. Lúc này K điều khiển xe chạy trước, còn T lái xe đi theo phía sau.

Khi đi đến ngã tư Nguyễn Hữu Thọ – Nguyễn Văn Linh (TP Bà Rịa), T đã điều khiển ô tô Vinfast tông vào đuôi ô tô Lexus của K nhiều lần.

Vì bị tông nên K quay đầu xe, liên tục tông trực tiếp vào đầu xe của T, hậu quả hai xe ô tô hư hỏng nặng.

Chỉ khi có người dân can ngăn K mới dừng đâm xe T và lùi xe rồi bỏ đi. Sau đó T cũng lái xe rời hiện trường.

Hậu quả của vụ tông xe nhau của 2 tài xế Lexus và Vinfast
Hậu quả của vụ tông xe nhau của 2 tài xế Lexus và Vinfast

Theo Điều 178 Bộ luật Hình sự năm 2015 Tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng thì bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm…”

XEM THÊM

 

Chiêu mới “né” CSGT đo nồng độ cồn

Sau trào lưu “né” đo nồng độ cồn ở các chốt CSGT bằng việc hóa trang thành những người giao hàng của Shopee Food, Grab để đi nhậu, hiện nay trên địa bàn TP. Buôn Ma Thuột, Đắc Lắc lại xuất hiện “chiêu thức” mới nhằm tránh bị kiểm tra, xử lý vi phạm về nồng độ cồn.  Chiêu trò gì? Mời quí vị cùng xuphat.com tìm hiểu…

Chiêu mới dùng xe đạp thể thao, xe đạp điện né CSGT

Những ngày qua, nhiều loại xe đạp thể thao, xe đạp điện được sắp xếp gọn gàng trên vỉa hè các quán nhậu tại TP. Buôn Ma Thuột từ tờ mờ tối đến khuya. Chủ nhân những phương tiện đó không phải là học sinh, người tập thể thao mà là những người đi nhậu với mục đích “né” việc đo nồng độ cồn của cảnh sát giao thông.

Xe đạp thể thao, xe đạp điện dựng trên vỉa hè một quán nhậu trên đường Trần Phú (TP. Buôn Ma Thuột).
Xe đạp thể thao, xe đạp điện dựng trên vỉa hè một quán nhậu trên đường Trần Phú (TP. Buôn Ma Thuột).

Không biết từ bao giờ, những chiếc xe đạp thể thao dùng để rèn luyện, nâng cao sức khỏe trở thành phương tiện cho dân nhậu di chuyển với ý nghĩ đánh lừa lực lượng chức năng lầm tưởng mình đang đạp xe thể dục, tránh bị kiểm tra hành chính và đo nồng độ cồn. Sau nhiều lần trót lọt chạy qua chốt cảnh sát giao thông trong tâm thế thản nhiên, anh L.N.T.L. (phường Thành Công) chia sẻ: “Mỗi tuần, tôi thường có 2 – 3 cuộc vui tụ tập anh em cùng đi nhậu. Mỗi lần, chúng tôi sẽ hẹn ở một địa điểm khác nhau, có những nơi cách nhà tôi trên 10 km nên đi taxi sẽ rất tốn chi phí. Trong một lần đang đạp xe thể thao để rèn luyện sức khỏe, được bạn rủ đi nhậu, tôi đạp thẳng đến quán nhậu. Lần đó, tôi đạp xe về nhà qua mấy chốt CSGT nhưng không ai để ý, cũng không tốn một đồng đi taxi hay đổ xăng nào nên từ đó đã dùng xe đạp thể thao để đi nhậu”.

Không chỉ xe đạp thể thao, xe đạp điện cũng được các dân nhậu dùng làm phương tiện để “né” việc kiểm soát của CSGT. Một số người hay đi nhậu cho rằng, xe máy điện và đạp điện có tốc độ di chuyển tối đa từ 25 – 50 km/giờ nên nếu rơi vào trạng thái say xỉn vẫn an toàn hơn các phương tiện khác. Cùng với đó, CSGT cũng rất ít khi kiểm soát loại phương tiện này nên khả năng bị kiểm tra đo nồng độ cồn rất thấp.

Nhiều người kinh doanh xe đạp điện đánh vào tâm lý xử phạt ít để thu hút người mua.
Nhiều người kinh doanh xe đạp điện đánh vào tâm lý xử phạt ít để thu hút người mua.

Luật Giao thông đường bộ quy định: xe đạp điện là phương tiện giao thông thô sơ. Bởi vậy, về tiêu chuẩn chất lượng, điều kiện an toàn kỹ thuật và công tác quản lý đối với xe đạp điện, người điều khiển xe đạp điện… không bị điều chỉnh chặt chẽ như đối với phương tiện giao thông cơ giới. Do đó, xe đạp điện không phải đăng ký, cấp biển số, người điều khiển không bắt buộc phải có giấy phép lái xe…

Đây chính là “lỗ hổng” mà các dân nhậu tận dụng để “né” việc kiểm soát nồng độ cồn của cán bộ CSGT.

Mức xử phạt dành cho dân nhậu chạy xe đạp thể thao, xe đạp điện

Mặc dù vậy, Nghị định 100/2019/NĐ-CP (sửa đổi tại Nghị định 123/2021/NĐ-CP) đã quy định rõ: Người đi xe đạp, xe đạp điện có nồng độ cồn chưa vượt quá 50 mg/100 ml máu hoặc chưa vượt quá 0,25 mg/lít khí thở sẽ bị xử phạt từ 80 – 100 nghìn đồng. Người vi phạm vượt quá 50 – 80 mg/100 ml máu hoặc quá 0,25 – 0,4 mg/lít khí thở bị phạt 300 – 400 nghìn đồng. Mức phạt tăng lên 400 – 600 nghìn đồng nếu trong máu hoặc hơi thở có nồng độ cồn vượt quá 80 mg/100 ml máu hoặc vượt quá 0,4 mg/lít khí thở. “Dân nhậu” đã biết có mức phạt dành cho những phương tiện trên nhưng họ vẫn sử dụng. Nguyên nhân là do so với mức phạt nồng độ cồn của xe máy và xe ô tô từ 2 – 40 triệu đồng và tước Giấy phép lái xe từ 10 – 24 tháng (theo Nghị định 100/2019/NĐ-CP (sửa đổi tại Nghị định 123/2021/NĐ-CP)) thì mức phạt của các phương tiện này còn nhẹ hơn rất nhiều lần.

Trên thực tế, xe đạp điện là phương tiện có gắn động cơ, lưu thông với tốc độ khá nhanh. Về nguyên lý, để đạt được cùng tốc độ, đường kính lốp nhỏ hơn thì số vòng quay phải lớn hơn, do đó độ văng lớn hơn. Trong khi đó, tiết diện tiếp xúc với mặt đường của lốp xe đạp điện khá nhỏ, dẫn tới độ ma sát với mặt đường kém nên khi di chuyển với tốc độ cao rất dễ gây tai nạn. Đặc biệt, trong trường hợp say xỉn, việc điều khiển phương tiện này khi tham gia giao thông sẽ dẫn đến nhiều mối nguy hiểm hơn.

Lực lượng chức năng cần siết chặt việc quản lý các loại xe này và cần quy định chặt chẽ, với chế tài đủ sức răn đe đến đối tượng có hành vi vi phạm. Đồng thời, mỗi người dân nên có ý thức tốt, thực hiện đúng quy định của pháp luật, đã uống rượu, bia thì không điều khiển phương tiện giao thông để bảo vệ tính mạng của mình cũng như người khác.

XEM THÊM:

xe oto phạt nguộiTRA CỨU
PHẠT NGUỘI