Ví dụ: 29A12345

Huu Nghia

Nóng: Tai nạn giao thông làm 5 người thương vong tại Đắk Lắk

Những ngày qua xảy ra rất nhiều vụ tai nạn giao thông làm nhiều người thương vong. Vụ việc mới nhất vừa xảy ra vào sáng 14/11 tại tỉnh Đắk Lắk khi xe ô tô con tông vào lan can bên phải đường làm hai người tử vong và ba người bị thương.

Tai nạn giao thông làm 5 người thương vong tại Đắk Lắk
Tai nạn giao thông làm 5 người thương vong tại Đắk Lắk

Tai nạn giao thông nghiêm trọng

Thông tin ban đầu, vào khoảng 9h ngày 14/11, xe ôtô con biển kiểm soát 79A-455.35 (chưa rõ người điều khiển), lưu thông theo hướng từ tỉnh Đắk Lắk đi tỉnh Khánh Hoà, khi đến Km50+110, Quốc lộ 26, thuộc địa phận xã Ea Trang, huyện M’Drắk (tỉnh Đắk Lắk) thì bất ngờ tông vào lan can bên phải đường.

Thời điểm xảy ra tai nạn, trên xe có 5 người gồm: Trần Quốc Cường (sinh năm 1986), Võ Văn Quang (sinh năm 1988), Phạm Huỳnh Nhật Tiến (sinh năm 1999), Nguyễn Hên (sinh năm 1987), cùng trú tại tỉnh Khánh Hoà và Đinh Anh Tài (sinh năm 1998) trú tại tỉnh Gia Lai.

Cú tông mạnh đã khiến anh Cường tử vong tại chỗ, anh Quang tử vong tại Trung tâm Y tế huyện M’Drắk, ba người còn lại bị thương nặng đang được điều trị tại một số bệnh viện. Xe ôtô bị hư hỏng nặng.

Nhận được tin báo, lực lượng chức năng đã nhanh chóng có mặt tại hiện trường, cùng người dân đưa các nạn nhân đi cấp cứu, phân luồng giao thông và điều tra nguyên nhân vụ việc.

 

 

 

 

Tai nạn giao thông làm 5 người thương vong tại Đắk Lắk

XEM THÊM>>Bắt giữ tài xế vi phạm nồng độ cồn khiến nhiều người thương vong ở Thủ Đức

Tài xế vụ tai nạn giao thông làm 5 người chết khai do ngoái lại nói chuyện với khách

Thông tin từ Công an tỉnh Lạng Sơn cho biết, đến nay công an tỉnh này đã có thông báo kết luận ban đầu về vụ TNGT đặc biệt nghiêm trọng trên QL1A, đoạn qua địa phận huyện Hữu Lũng, Lạng Sơn, ngày 31/10 khiến 5 người chết, 10 người bị thương.

Theo đó, lỗi của tài xế xe khách đã trực tiếp gây ra vụ việc đau lòng trên.

Tại cơ quan công an, tài xế Quách Đình Trọng (sinh năm 1968, trú tại phường Hà Tu, TP Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh), người điều khiển xe khách 16 chỗ BKS 14B-036.57 cho biết: Trước khi xảy ra vụ TNGT, tài xế này nhận khách lên xe, lưu thông được khoảng 1,2km thì xảy ra vụ việc.

Thời điểm xe mới nhập vào đường QL1A, do đường vắng nên tài xế điều khiển xe lưu thông với tốc độ cao, cách hiện trường xảy ra vụ việc khoảng 100m, tài xế này đã nhìn thấy đèn cảnh báo nguy hiểm phát ra từ xe sơ-mi rơ-moóc đang dừng bên phải đường theo chiều Lạng Sơn – Hà Nội, cùng chiều lưu thông với xe khách.

Tài xế xe khách cũng khai nhận, khi còn cách xe sơ-mi rơ-moóc khoảng 50m, tài xế có nhìn thấy cảnh báo nguy hiểm bằng cành cây trên mặt đường, phía đường đối diện có ánh đèn xe container đi tới cách khoảng 200m.

Cận cảnh xe khách sau vụ tai nạn giao thông đặc biệt nghiêm trọng tại Lạng Sơn
Cận cảnh xe khách sau vụ tai nạn giao thông đặc biệt nghiêm trọng tại Lạng Sơn

Do lúc này tài xế điều khiển xe khách không chú ý quan sát, lại đang ngoái lại xe tham gia nói chuyện về hành trình đi hầu đồng với các hành khách trên xe nên đã điều khiển xe đâm vào đuôi xe sơ-mi rơ-moóc và lao sang phần đường đối diện, tiếp tục va chạm với xe container đi cùng chiều.

Qua khám nghiệm hiện trường, phương tiện và lời khai của những người có liên quan, ban đầu cơ quan CSĐT Công an tỉnh Lạng Sơn nhận định: Xe khách đâm vào đuôi xe sơ-mi rơ-moóc mà không có dấu hiệu phanh trên đường, là nguyên nhân chính khiến 5 người chết, 10 người trên xe bị thương nên lỗi chủ yếu thuộc về tài xế xe khách. Xe container đã kịp thời phanh lại, gần như đã dừng hẳn trước khi va chạm với xe khách.

Do đó, ngày 1/11, Cơ quan CSĐT Công an tỉnh Lạng Sơn đã khởi tố vụ án, khởi tố bị can đối với tài xế Quách Đình Trọng về tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” theo Điều 260 Bộ luật Hình sự.

Hiện, cơ quan CSĐT Công an tỉnh Lạng Sơn đang tiếp tục điều tra, làm rõ việc cảnh báo của tài xế điều khiển xe sơ-mi rơ-moóc đã bảo đảm các quy định liên quan hay chưa và tiếp tục giải quyết vụ việc theo quy định.

XEM THÊM: 

Mua đất bằng giấy tay được cấp Sổ đỏ mới nhất

Mua đất bằng giấy tay có được cấp Sổ đỏ không là thắc mắc mà nhiều người đang gặp phải bởi số nhà đất mua bằng giấy tay hiện nay là vô cùng lớn. Tuy nhiên, từ nay quí không không còn phải lo lắng nữa. Hãy cùng xuphat.com cùng tìm hiểu những hướng dẫn làm sổ đỏ nhà đất mua bằng giấy tay quí vị nhé…

1. Định nghĩa mua đất bằng giấy viết tay

Mua bán đất bằng giấy viết tay được hiểu là việc chuyển nhượng quyền sử đất thông qua hợp đồng nhưng không thực hiện công chứng, chứng thực hợp đồng mua bán này.

Theo đó, về hiệu lực của giao dịch mua bán đất bằng giấy viết tay được quy định như sau:

– Trường hợp chuyển nhượng đất từ trước ngày 01/7/2014:

Tại khoản 1 Điều 82 Nghị định 43/2014/NĐ-CP được sửa đổi, bổ sung bởi khoản 54 Điều 2 Nghị định 01/2017/NĐ-CP quy định thủ tục đăng ký, cấp Giấy chứng nhận đối với trường hợp đã chuyển quyền sử dụng đất nhưng chưa thực hiện thủ tục chuyển quyền như sau:

“1. Các trường hợp đang sử dụng đất sau đây mà chưa được cấp Giấy chứng nhận và không thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 Điều này thì người đang sử dụng đất thực hiện thủ tục đăng ký đất đai, cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất lần đầu theo quy định của Luật đất đai và quy định tại Nghị định này mà không phải làm thủ tục chuyển quyền sử dụng đất; cơ quan tiếp nhận hồ sơ không được yêu cầu người nhận chuyển quyền sử dụng đất nộp hợp đồng, văn bản chuyển quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật:

  1. a) Sử dụng đất do nhận chuyển nhượng, nhận tặng cho quyền sử dụng đất trước ngày 01 tháng 01 năm 2008;
  2. b) Sử dụng đất do nhận chuyển nhượng, nhận tặng cho quyền sử dụng đất từ ngày 01 tháng 01 năm 2008 đến trước ngày 01 tháng 7 năm 2014 mà có giấy tờ về quyền sử dụng đất quy định tại Điều 100 của Luật đất đai và Điều 18 của Nghị định này”

Theo quy định trên, nếu đang sử dụng đất do nhận chuyển nhượng trước ngày 01/7/2014 thì khi thực hiện thủ tục đăng ký đất đai cơ quan tiếp nhận hồ sơ không được yêu cầu người nhận chuyển nhượng nộp hợp đồng có công chứng hoặc chứng thực.

Nói cách khác, trường hợp chuyển nhượng đất bằng giấy viết tay từ trước ngày 01/7/2014 vẫn được công nhận hiệu lực.

– Trường hợp chuyển nhượng từ ngày 01/7/2014 đến nay

Điểm a khoản 3 Điều 167 Luật Đất đai 2013 quy định hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất giữa hộ gia đình, cá nhân với nhau phải công chứng, chứng thực nếu không sẽ không có hiệu lực, trừ khoản 2 Điều 129 Bộ luật Dân sự 2015.

Do đó, trường hợp mua bán đất bằng giấy viết tay từ ngày 01/7/2014 đến nay sẽ không được công nhận hiệu lực.

TIN HOT>>Dùng giấy tờ giả lừa đảo cụ bà U80 gần 90 tỷ đồng

2. Mua đất bằng giấy tay trước năm 1993 được cấp Sổ đỏ không?

Như đã trình bày ở phần trên, trường hợp đang sử dụng đất mà chưa được cấp Giấy chứng nhận thì người đang sử dụng đất thực hiện thủ tục cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất lần đầu mà không phải làm thủ tục chuyển quyền sử dụng đất.

Đáng chú ý, cơ quan tiếp nhận hồ sơ không được yêu cầu người nhận chuyển quyền sử dụng đất nộp hợp đồng, văn bản chuyển quyền sử dụng đất nếu:

– Sử dụng đất do nhận chuyển nhượng, nhận tặng cho quyền sử dụng đất trước ngày 01/01/2008;

– Sử dụng đất do nhận chuyển nhượng, nhận tặng cho quyền sử dụng đất từ ngày 01/01/2008 đến trước ngày 01/7/2014 mà có giấy tờ về quyền sử dụng đất;

– Sử dụng đất do nhận thừa kế quyền sử dụng đất trước 01/7/2014.

Như vậy, trường hợp các bên mua bán đất bằng giấy viết tay (không có công chứng, chứng thực) từ trước năm 1993 thì được thực hiện thủ tục cấp Sổ đỏ lần đầu.

Mua đất bằng giấy tay sẽ được cấp Sổ đỏ
Mua đất bằng giấy tay sẽ được cấp Sổ đỏ

TPHCM hướng dẫn cấp sổ đỏ nhà đất mua bán giấy tay

Ngày 13.11, Sở TN-MT TP.HCM có văn bản hướng dẫn UBND các quận, huyện, TP.Thủ Đức và Văn phòng Đăng ký đất đai TP.HCM về việc cấp giấy chứng nhận cho các hồ sơ tự ý tách thửa, tự ý chuyển mục đích sử dụng đất, chuyển quyền bằng giấy tay (còn gọi là mua bán giấy tay).

Theo đó, Văn phòng Đăng ký đất đai TP.HCM chỉ đạo các chi nhánh văn phòng đăng ký đất đai căn cứ tình hình thực tế để phối hợp Phòng TN-MT, Phòng Quản lý đô thị và UBND phường, xã, thị trấn xác định điều kiện cấp giấy chứng nhận cho trường hợp mua bán giấy tay. Các đơn vị chủ động lập kế hoạch rà soát, phân loại hồ sơ, thời gian và các bước thực hiện.

Sở TN-MT đề nghị UBND quận, huyện, TP.Thủ Đức căn cứ tình hình địa phương để xây dựng cơ chế phối hợp của các cơ quan, đơn vị trong việc rà soát hồ sơ, xử lý vi phạm, có ý kiến về quy hoạch, hạn mức, điều kiện về hạ tầng khi xem xét cấp sổ đỏ cho các trường hợp mua bán giấy tay.

Đồng thời, chỉ đạo UBND phường, xã, thị trấn có kế hoạch công khai thông tin rộng rãi và tuyên truyền, yêu cầu người dân thực hiện kê khai, đăng ký theo quy định.

Sở TN-MT đề nghị nếu có khó khăn, vướng mắc trong quá trình giải quyết thì báo cáo sở để thống nhất giải quyết hoặc tổng hợp, trình cơ quan có thẩm quyền xin ý kiến đối với nội dung vượt thẩm quyền.

Hướng dẫn của Sở TN-MT đưa ra sau khi Phó chủ tịch UBND TP.HCM Bùi Xuân Cường có ý kiến chỉ đạo đẩy nhanh tiến độ cấp giấy chứng nhận, bao gồm các trường hợp nhà đất mua bán giấy tay.

Lãnh đạo TP.HCM yêu cầu khi xem xét giải quyết cần đảm bảo các điều kiện về cơ sở hạ tầng và quy hoạch, không để xảy ra tình trạng phân lô, tách thửa, xây dựng không đúng quy hoạch.

Xử lý vi phạm mua bán đất bằng giấy tay trước khi cấp sổ đỏ

Theo Sở TN-MT, việc mua bán nhà đất bằng giấy tay là một dạng tồn tại kéo dài qua nhiều thời kỳ, có thể phát sinh tiếp theo do việc mua bán giấy tay không có xác nhận của cơ quan chức năng nên việc kiểm tra tính xác thực của thời điểm mua bán là thiếu căn cứ, dễ bị lợi dụng làm trái quy định. Hơn nữa, nếu làm không chặt chẽ sẽ dẫn đến tình trạng “lách luật” chia tách thửa đất không đảm bảo hạn mức.

Trong văn bản đề xuất UBND TP.HCM hồi tháng 8.2023, Sở TN-MT đề nghị địa phương rà soát, xác minh về người sử dụng đất (bên bán và bên mua), thời điểm, quá trình quản lý sử dụng, hiện trạng, ranh giới sử dụng đất và việc tranh chấp nếu có cũng như rà soát quy hoạch sử dụng đất, quy hoạch chi tiết xây dựng đô thị, hướng dẫn của Tổng cục Quản lý đất đai.

Nếu hộ dân vi phạm về đất đai thì địa phương xử lý vi phạm trước khi cấp giấy chứng nhận. Trường hợp đủ điều kiện thì giao Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai quận, huyện, TP.Thủ Đức ký cấp giấy cho người sử dụng đất.

Đối với hồ sơ đã tiếp nhận trước ngày 18.6.2019, Sở TN-MT đề xuất chấp thuận thời điểm hình thành thửa đất tách ra để chuyển quyền bằng giấy tay (trước ngày 1.7.2014) được xác định cụ thể theo thời điểm ghi tại giấy tờ mua bán giấy tay. Việc áp dụng quy định diện tích tối thiểu khi tách thửa căn cứ vào Quyết định 19/2009 và Quyết định 54/2012 của UBND TP.HCM.

Đối với hồ sơ chưa tiếp nhận, địa phương công khai trên phương tiện thông tin đại chúng để các trường hợp chuyển quyền bằng giấy tay một phần diện tích kê khai chậm nhất đến hết tháng 12.2023, đăng ký biến động và cấp giấy chứng nhận theo quy định. Các hồ sơ phát sinh sau thời điểm kê khai, đăng ký (nếu có) sẽ không có cơ sở xem xét giải quyết.

Sở TN-MT lưu ý việc xác định thửa đất được tách ra khi chuyển quyền trên cơ sở xem xét quá trình sử dụng đất, thông tin thửa đất và người sử dụng đất thông qua bản đồ, sổ mục kê, tài liệu kê khai, đo đạc qua các thời kỳ nhằm đảm bảo quy định về hạn mức tách thửa, các điều kiện về cơ sở hạ tầng của địa phương.

XEM THÊM: 

Tình huống xử phạt học sinh đánh nhau phải ngồi tù

Những ngày qua, liên tiếp các vụ bạo lực học đường xảy ra với tính chất ngày càng nghiêm trọng, khiến học sinh bất an, thầy cô và gia đình các em lo lắng. Chỉ trong vòng 1 tuần qua, ít nhất xảy ra 3 vụ học sinh đánh nhau tại TPHCM, Hà Nội, Nghệ An.

Thực trạng học sinh tại nhiều tỉnh thành trên cả nước liên tiếp xảy ra đánh nhau, tung clip lên mạng khiến dư luận quan tâm, bất bình. Câu hỏi nhiều người đặt ra là những học sinh đánh bạn ngoài kỷ luật của nhà trường thì có phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về hành vi của mình?

Học sinh đánh nhau tại Hà Nội
Học sinh đánh nhau tại Hà Nội

Học sinh mâu thuẫn nhỏ cũng đánh nhau

Tối 12/11, video một nữ sinh bị đánh hội đồng được lan truyền rầm rộ trên các diễn đàn mạng xã hội. Trong video, nạn nhân ngã trên nền gạch, liên tiếp bị nhóm nữ sinh đánh, đá vào đầu… nên chỉ ôm mặt khóc. Sự việc sau đó được xác định xảy ra tại Trường THCS Tân Minh, huyện Thường Tín, Hà Nội.

Theo điều tra ban đầu: vụ việc xảy ra lúc 16 giờ 45 ngày 10/11/2023, 4 học sinh, gồm Tố U. (học sinh đã nghỉ học); Bảo A., Hương L. và Mai U., đều là học sinh Trường THCS Tân Minh đã đến gặp để gây sự với em Thu N, học sinh lớp 6D, sau đó quay clip rồi đăng tải hình ảnh lên mạng xã hội. Đáng lưu ý, trong nhóm nữ sinh này có Mai U. vừa đến trường sau thời gian bị đình chỉ học do có xô xát với bạn học.

Ngay sau khi sự việc xảy ra, nhà trường đã cùng công an địa phương vào cuộc lập biên bản sự việc và kịp thời đưa em N. đến bệnh viện kiểm tra sức khỏe.

Cùng việc thăm nom, động viên em N., Cơ quan công an huyện Thường Tín và Công an xã Tân Minh đang tích cực củng cố hồ sơ để xử lý vụ việc theo quy định.

Chiều 13/11, một lãnh đạo Trường THCS Khánh Sơn (xã Khánh Sơn, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An) xác nhận: hôm 10/11, ở ngay trong trường nhưng ngoài giờ làm việc, một nữ sinh lớp 7 của trường đã bị bạn đánh và lột áo ngay trong trường.

Thời điểm hai em đánh nhau, xung quanh có nhiều học sinh khác chứng kiến nhưng không em nào có động thái can ngăn.

Nguyên nhân dẫn đến sự việc là vì B.T.N (lớp 7D) cho rằng bị nạn nhân là Q (lớp 7B) “nhìn đểu”.

Trước đó cũng xảy ra các vụ nam nữ sinh tại Đắk Lắk và TP Hồ Chí Minh xô xát đánh nhau cũng vì những mâu thuẫn nhỏ nhặt trong cuộc sống, nói xấu nhau trên mạng xã hội hay xuất phát từ sự kích động của bạn bè.

Một vụ học sinh đánh nhau khác
Một vụ học sinh đánh nhau khác

Khi nào học sinh đánh nhau bị xử lý hình sự?

Đa số các vụ học sinh đánh người ở mức độ nhẹ thì sẽ bị xử lý kỷ luật theo quy định của nhà trường. Nhưng nếu hành vi đó có dấu hiệu vi phạm pháp luật thì tùy tính chất, mức độ có thể bị xử phạt hành chính hoặc nghiêm trọng hơn có thể bị xử lý hình sự.

Cụ thể, theo quy định của pháp luật, đối với những hành vi đánh nhau, lôi kéo đánh nhau, tụ tập, gây rối trật tự công cộng có thể bị xử phạt theo Điều 7, Nghị định 144/2021/NĐ-CP hoặc nếu đủ dấu hiệu tội phạm thì có thể bị xử lý theo điều Điều 134, Bộ Luật Hình sự 2015 – Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác”.

Xử phạt hành chính Điều 7. Vi phạm quy định về trật tự công cộng

1. Phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 300.000 đồng đến 500.000 đồng đối với một trong những hành vi sau đây:

a) Gây mất trật tự công cộng ở nơi biểu diễn nghệ thuật, nơi tổ chức các hoạt động văn hóa, thể dục thể thao, thương mại, trụ sở cơ quan, tổ chức, khu dân cư hoặc ở những nơi công cộng khác, trừ trường hợp quy định tại điểm a khoản 2, điểm b khoản 5 Điều này;

2. Phạt tiền từ 1.000.000 đồng đến 2.000.000 đồng đối với một trong những hành vi sau đây:

b) Tổ chức, tham gia tụ tập nhiều người ở nơi công cộng gây mất trật tự công cộng;

3. Phạt tiền từ 2.000.000 đồng đến 3.000.000 đồng đối với một trong những hành vi sau đây:

b) Tổ chức, thuê, xúi giục, lôi kéo, dụ dỗ, kích động người khác cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe người khác hoặc xâm phạm danh dự, nhân phẩm của người khác nhưng không bị truy cứu trách nhiệm hình sự;

4. Phạt tiền từ 3.000.000 đồng đến 5.000.000 đồng đối với một trong những hành vi sau đây:

a) Tổ chức thuê, xúi giục, lôi kéo, dụ dỗ hoặc kích động người khác gây rối, làm mất trật tự công cộng;

b) Mang theo trong người hoặc tàng trữ, cất giấu các loại vũ khí thô sơ, công cụ hỗ trợ hoặc các loại công cụ, phương tiện khác có khả năng sát thương; đồ vật, phương tiện giao thông nhằm mục đích gây rối trật tự công cộng, cố ý gây thương tích cho người khác;

Xử lý hình sự Điều 134. Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác

1. Người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 11% đến 30% hoặc dưới 11% nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:

a) Dùng vũ khí, vật liệu nổ, hung khí nguy hiểm hoặc thủ đoạn có khả năng gây nguy hại cho nhiều người;

b) Dùng a-xít nguy hiểm hoặc hóa chất nguy hiểm;

c) Đối với người dưới 16 tuổi, phụ nữ mà biết là có thai, người già yếu, ốm đau hoặc người khác không có khả năng tự vệ;

d) Đối với ông, bà, cha, mẹ, thầy giáo, cô giáo của mình, người nuôi dưỡng, chữa bệnh cho mình;

đ) Có tổ chức;

e) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn;

g) Trong thời gian đang bị giữ, tạm giữ, tạm giam, đang chấp hành án phạt tù, đang chấp hành biện pháp tư pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng hoặc đang chấp hành biện pháp xử lý vi phạm hành chính đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc, đưa vào trường giáo dưỡng hoặc đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc;

h) Thuê gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác hoặc gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do được thuê;

i) Có tính chất côn đồ;

k) Đối với người đang thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 06 năm:

a) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%;

b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người từ 11% đến 30%;

c) Phạm tội 02 lần trở lên;

d) Tái phạm nguy hiểm;

đ) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 11% đến 30% nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều này.

Như vậy: Học sinh từ đủ 16 tuổi trở lên thì sẽ phải chịu trách nhiệm hình sự nếu như hành vi của các em đã có dấu hiệu tội phạm.

Học sinh từ đủ 14 tuổi trở lên thì phải chịu trách nhiệm hình sự với những hành vi có tính chất đặc biệt nghiêm trọng. Còn học sinh dưới 14 tuổi, nếu hành vi có tính chất đặc biệt nghiêm trọng thì đã có các trung tâm trường giáo dưỡng để phục vụ công tác giáo dục các em một mức độ cao hơn mức độ nhà trường để các em có nhận thức đúng đắn để không tái diễn hành vi vi phạm

Như quí vị thấy, tình trạng bạo lực học đường nhất là tụ tập đánh nhau, đánh người diễn ra ngày càng nhiều đến mức báo động, rất cần được ngăn chặn trước khi để lại nhiều hậu quả xấu.

Để làm được điều đó, rất cần sự vào cuộc của gia đình, nhà trường và cả xã hội nhất là rất cần có những buổi tuyên truyền để học sinh hiểu rằng, hành vi của mình là hành vi vi phạm đạo đức, vi phạm pháp luật, thậm chí có thể ngồi tù nếu gây thương tích cho người khác.

XEM THÊM: 

Bị xử lý thế nào khi đăng hình người khác lên mạng làm giả lệnh truy nã?

Bạn tôi vay tiền nhưng trả muộn so với thời hạn giao hẹn, chủ nợ thấy vậy đã đăng hình bạn tôi lên mạng làm giả lệnh truy nã. Theo quy định thì chủ nợ sẽ bị xử lý thế nào?

Bạn đọc Phạm Hoàng Quỳnh Ny.

Việc chủ nợ làm giả lệnh truy nã, đăng tải hình ảnh cá nhân của người vay tiền lên mạng xã hội nhằm mục đích bôi nhọ, hành vi này đã xâm phạm đến danh dự, nhân phẩm của công dân.
Việc chủ nợ làm giả lệnh truy nã, đăng tải hình ảnh cá nhân của người vay tiền lên mạng xã hội nhằm mục đích bôi nhọ, hành vi này đã xâm phạm đến danh dự, nhân phẩm của công dân.

– Trả lời:

Điều 32 Bộ luật Dân sự 2015 quy định: “Cá nhân có quyền đối với hình ảnh của mình và việc sử dụng hình ảnh của cá nhân phải được người đó đồng ý.

Việc sử dụng hình ảnh mà vi phạm quy định tại điều này thì người có hình ảnh có quyền yêu cầu tòa án ra quyết định buộc người vi phạm, cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan phải thu hồi, tiêu hủy, chấm dứt việc sử dụng hình ảnh, bồi thường thiệt hại và áp dụng các biện pháp xử lý khác theo quy định của pháp luật”.

Hành vi đăng hình người khác lên mạng làm giả lệnh truy nã là vi phạm pháp luật

Mặc dù pháp luật ghi nhận và bảo vệ quyền hình ảnh của cá nhân như trên, nhưng cũng tại khoản 2, điều 32 Bộ luật Dân sự 2015, có hai trường hợp được sử dụng hình ảnh cá nhân của người khác mà không cần sự đồng ý của người đó hoặc người đại diện theo pháp luật, gồm:

– Sử dụng hình ảnh vì lợi ích quốc gia, dân tộc, lợi ích công cộng.

– Sử dụng hình ảnh từ các hoạt động công cộng: hội nghị, hội thảo, thi đấu thể dục thể thao, biểu diễn nghệ thuật… mà không làm tổn hại đến danh dự, nhân phẩm, uy tín của người có hình ảnh.

Việc chủ nợ làm giả lệnh truy nã, đăng tải hình ảnh cá nhân của người vay tiền lên mạng xã hội nhằm mục đích bôi nhọ, gây ảnh hưởng tiêu cực tới uy tín, danh dự cá nhân của người vay, từ đó tạo sức ép để người vay tiền phải trả nợ.

Pháp luật nghiêm cấm tội làm nhục người khác
Pháp luật nghiêm cấm tội làm nhục người khác

Hành vi này đã xâm phạm đến danh dự, nhân phẩm của công dân. Căn cứ vào tính chất, mức độ, hậu quả của hành vi này gây ra, người vi phạm có thể bị xử lý như sau:

  1. Trường hợp hành vi này gây hậu quả không nghiêm trọng, người vi phạm bị xử phạt hành chính theo điểm g khoản 3 điều 102 nghị định 15/2020/NĐ-CP ngày 3-2-2020 quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bưu chính, viễn thông, công nghệ thông tin và tần số vô tuyến điện:

“Phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng đối với một trong các hành vi sau đây: Cung cấp, trao đổi, truyền đưa hoặc lưu trữ, sử dụng thông tin số nhằm đe dọa, quấy rối, xuyên tạc, vu khống, xúc phạm uy tín của tổ chức, danh dự, nhân phẩm, uy tín của người khác”.

  1. Trường hợp hành vi này gây hậu quả nghiêm trọng, người vi phạm có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo điều 155 hoặc điều 156, Bộ luật Hình sự năm 2015, quy định cụ thể như sau:

Điều 155. Tội làm nhục người khác

  1. Người nào xúc phạm nghiêm trọng nhân phẩm, danh dự của người khác, thì bị phạt cảnh cáo, phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 3 năm.
  2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 3 tháng đến 2 năm:

a) Phạm tội 2 lần trở lên.

b) Đối với 2 người trở lên.

c) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn.

d) Đối với người đang thi hành công vụ.

đ) Đối với người dạy dỗ, nuôi dưỡng, chăm sóc, chữa bệnh cho mình.

e) Sử dụng mạng máy tính hoặc mạng viễn thông, phương tiện điện tử để phạm tội.

g) Gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỉ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%.

3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 2 năm đến 5 năm:

a) Gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỉ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên.

b) Làm nạn nhân tự sát.

4. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 1 năm đến 5 năm.

Điều 156. Tội vu khống

1. Người nào thực hiện một trong các hành vi sau đây, thì bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 2 năm hoặc phạt tù từ 3 tháng đến 1 năm:

a) Bịa đặt hoặc loan truyền những điều biết rõ là sai sự thật nhằm xúc phạm nghiêm trọng nhân phẩm, danh dự hoặc gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của người khác.

b) Bịa đặt người khác phạm tội và tố cáo họ trước cơ quan có thẩm quyền.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 1 năm đến 3 năm:

a) Có tổ chức.

b) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn.

c) Đối với 2 người trở lên.

d) Đối với ông, bà, cha, mẹ, người dạy dỗ, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục, chữa bệnh cho mình.

đ) Đối với người đang thi hành công vụ.

e) Sử dụng mạng máy tính hoặc mạng viễn thông, phương tiện điện tử để phạm tội.

g) Gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỉ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%.

h) Vu khống người khác phạm tội rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng.

3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 3 năm đến 7 năm:

a) Vì động cơ đê hèn.

b) Gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỉ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên.

c) Làm nạn nhân tự sát.

4. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 1 năm đến 5 năm.

Như vậy, trong trường hợp này, bạn của bạn có thể làm đơn trình báo đến lực lượng chức năng để được bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp.

XEM THÊM:>>Khi nào thì người bị kết án tử hình được hoãn thi hành án?

Thắc mắc: Khi nào được hoãn thi hành án tử hình ?

VKSND Tối cao cho biết việc viết đơn xin ân giảm hình phạt tử hình khi tiến hành thi hành án không phải điều kiện để hoãn thi hành án.

Vừa qua, VKSND Tối cao đã ban hành công văn 2160/VKSTC-V14 giải đáp một số khó khăn, vướng mắc liên quan đến quy định của Bộ luật Hình sự (BLHS) 2015, Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTHS) 2015, về thi hành tạm giữ và thi hành án hình sự.

VKSND Tối cao đã ban hành công văn 2160/VKSTC-V14 giải đáp vướng mắc liên quan đến quy định của Bộ luật Hình sự 2015, Bộ luật Tố tụng hình sự 2015, về thi hành tạm giữ và thi hành án hình sự.
VKSND Tối cao đã ban hành công văn 2160/VKSTC-V14 giải đáp vướng mắc liên quan đến quy định của Bộ luật Hình sự 2015, Bộ luật Tố tụng hình sự 2015, về thi hành tạm giữ và thi hành án hình sự.

VKSND Tối cao cho biết, qua thực tiễn công tác thực hành quyền công tố, kiểm sát việc giải quyết vụ án hình sự và kiểm sát thi hành án hình sự, VKSND Tối cao nhận được ý kiến phản ánh đề nghị hướng dẫn, giải đáp khó khăn, vướng mắc trong việc áp dụng một số quy định của Bộ luật nêu trên.

Do vậy, VKSND Tối cao đã hướng dẫn 12 vướng mắc liên quan đến quy định tại BLHS, 4 vướng mắc liên quan đến quy định tại BLTTHS và 5 vướng mắc liên quan đến quy định về thi hành tạm giữ, thi hành án hình sự.

Trong đó, liên quan đến thi hành án tử hình, thực tiễn đặt ra tình huống: Trường hợp người bị kết án  không làm đơn xin ân giảm hình phạt tử hình mà chỉ có đơn kêu oan (Chánh án TAND Tối cao, Viện trưởng VKSND Tối cao không kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm) thì có được coi là đủ điều kiện để thi hành án tử hình không hoặc đến khi tiến hành thi hành án bị án mới viết đơn ân giảm lên Chủ tịch nước thì có được hoãn thi hành án không?

Về vấn đề này, theo VKSND Tối cao, khoản 1 Điều 367 BLTTHS năm 2015 quy định đơn xin ân giảm hình phạt tử hình là đơn người bị kết án xin được giảm án, không phải chấp hành án tử hình và được gửi lên Chủ tịch nước trong thời hạn 7 ngày kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật; còn đơn kêu oan là đơn người bị kết án cho rằng mình bị oan, không có tội. Đây là hai loại đơn khác nhau.

Việc viết đơn xin ân giảm hình phạt tử hình khi tiến hành thi hành án không phải điều kiện để hoàn thi hành án tử hình.
Việc viết đơn xin ân giảm hình phạt tử hình khi tiến hành thi hành án không phải điều kiện để hoàn thi hành án tử hình.

Hiện nay pháp luật chỉ quy định việc bản án tử hình được thi hành khi có đủ hai điều kiện:

(i) Chánh án TAND Tối cao và Viện trưởng VKSND Tối cao không kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm và (ii) người bị kết án không có đơn xin ân giảm lên Chủ tịch nước, nên cần phải xác định: Nếu người bị kết án chỉ có đơn kêu oan, không có đơn xin ân giảm thì Viện trưởng VKSND tối cao và Chánh án TAND Tối cao phải xem xét kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm. Trường hợp Viện trưởng VKSND tối cao và Chánh án Tòa án nhân dân tối cao không kháng nghị, người bị kết án không có đơn xin ân giảm trong thời hạn quy định tại điểm d khoản 1 Điều 367 BLTTHS năm 2015 (Trong thời hạn 7 ngày kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật) thì đủ điều kiện thi hành án tử hình theo quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 367 BLTTHS năm 2015.

Về việc hoãn thi hành án tử hình, VKSND Tối cao cho biết, theo quy định tại khoản 1 Điều 81 Luật Thi hành án hình sự năm 2019 thì Hội đồng thi hành án tử hình quyết định hoãn thi hành án nếu thuộc một trong các trường hợp sau:

(i) Người bị kết án tử hình thuộc trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 40 BLHS gồm: Phụ nữ có thai hoặc phụ nữ đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi; người đủ 75 tuổi trở lên; người bị kết án tử hình về tội tham ô tài sản, tội nhận hối lộ mà sau khi bị kết án đã chủ động nộp lại ít nhất ba phần tư tài sản tham ô, nhận hối lộ và hợp tác tích cực với cơ quan chức năng trong việc phát hiện, điều tra, xử lý tội phạm hoặc lập công lớn.

(ii) Có lý do bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan.

(iii) Ngay trước khi thi hành án, người bị kết án khai báo những tình tiết mới về tội phạm.

Trong đó, Khoản 2 Điều 9 Thông tư liên tịch số 02/2020/TTLT-BCA-BQP-BYT-BNG-TANDTC-VKSNDTC quy định về việc việc phối hợp tổ chức thi hành án tử hình bằng hình thức tiêm thuốc độc có quy định về “có lý do bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan” trong trường hợp hoãn thi hành án tử hình nêu trên được hiểu là: trường hợp gặp thiên tai, hỏa hoạn hoặc có trở ngại khách quan khác không thể tổ chức thực hiện được việc thi hành án tử hình hoặc các trường hợp như: trên đường áp giải, người bị thi hành án tử hình bị tai nạn phải đưa đến bệnh viện; trường hợp trang thiết bị, dụng cụ thi hành án tử hình bị hư hỏng; không xác định được tĩnh mạch; thuốc thi hành án tử hình không đúng chủng loại, chất lượng, số lượng hoặc các điều kiện khác bảo đảm cho việc thi hành án tử hình không đáp ứng được.

XEM THÊM:>>Bắt giữ tài xế vi phạm nồng độ cồn khiến nhiều người thương vong ở Thủ Đức

Theo đó, việc viết đơn xin ân giảm hình phạt tử hình khi tiến hành thi hành án không phải điều kiện để hoàn thi hành án tử hình.

Tuy nhiên, VKSND Tối cao cũng cho rằng cần căn cứ vào từng trường hợp cụ thể để xem xét, bảo đảm tính thận trọng trong việc thi hành án tử hình.

xe oto phạt nguộiTRA CỨU
PHẠT NGUỘI